Trên nền tảng của chủ nghĩa Mác - Lênin, sự cổ vũ của phong trào cộng sản, công nhân quốc tế, sự giúp đỡ của các nước trong hệ thống XHCN, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo nhân dân Việt Nam thực hiện thắng lợi cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân, mở ra kỷ nguyên độc lập cho dân tộc, đưa cả nước bước vào thời kỳ quá độ lên CNXH. Đặc biệt trong thời kỳ đổi mới, với những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, Đảng Cộng sản Việt Nam đã cống hiến nhiều vấn đề lý luận không những có đóng góp bảo vệ những giá trị của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh mà còn bổ sung vào kho tàng lý luận của các nhà kinh điển mác xít, trong đó, nổi bật và xuyên suốt là vấn đề nhận thức về CNXH, con đường đi lên CNXH của Việt Nam trong điều kiện đặc thù từ một nước nông nghiệp lạc hậu, trải qua hai cuộc chiến tranh vệ quốc kéo dài.
1. Nhận thức và vận dụng lý luận Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội
Khẳng định đi lên chủ nghĩa xã hội là một tất yếu của cách mạng Việt Nam
Lựa chọn con đường đi lên CNXH ở Việt Nam không phải là quyết định mang tính cá nhân hay nhất thời, mà là sự tổng hợp các điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan trong nước và quốc tế, trên cơ sở nghiên cứu lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và tổng kết thực tiễn; đó là một quá trình lâu dài và bền bỉ, trải muôn vàn thử thách với những giai đoạn hết sức cam go đối với vận mệnh của dân tộc và cách mạng Việt Nam. Đặc biệt, vào những năm 90 của thế kỷ XX, khi CNXH hiện thực ở Liên Xô và Đông Âu rơi vào khủng hoảng và sụp đổ, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế có sự thoái trào, ở Việt Nam lúc đó xuất hiện khá nhiều ý kiến trái chiều về vấn đề con đường phát triển của đất nước, đòi xem lại tính khoa học, tính khách quan sự lựa con đường đi lên CNXH ở nước ta. Trước bối cảnh đó, Đảng ta vẫn tiếp tục kiên định: “Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh”. Tổng kết 25 năm đổi mới, Đảng ta khẳng định: "Đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử"[1]. Bởi vì, “… Chỉ có CNXH, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”[2]. CNXH dù đang lâm vào khủng hoảng, thoái trào, nhưng “theo quy luật tiến hoá của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội”[3]. Đây chính là sự kiên định của cách mạng Việt Nam.
Với những thành tựu của 35 năm đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh 1991, đặc biệt 10 năm thực hiện Cương lĩnh 2011 đã chứng minh: “… con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại”[4].
Xác định những đặc trưng của chủ nghĩa xã hội Việt Nam
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tổng kết những thành công, thất bại của các mô hình XHCN trên thế giới, lần đầu tiên trong lịch sử xây dựng CNXH ở Việt Nam, Cương lĩnh năm 1991 của Đảng đã xác định sáu đặc trưng cơ bản thể hiện bản chất của CNXH mà nhân dân ta xây dựng[5]. Tổng kết 25 năm thực hiện đổi mới, 20 năm thực hiện Cương lĩnh 1991, nhận thức về đặc trưng của CNXH Việt Nam ngày càng được hoàn thiện. Cương lĩnh 2011 (bổ sung, phát triển) đã nêu 8 đặc trưng của xã hội XHCN mà nhân dân Việt Nam xây dựng[6].
Tám đặc trưng của CNXH Việt Nam nêu trong Cương lĩnh 2011 thể hiện quan điểm lý luận Mác - Lênin về CNXH. Một mặt, lấy phục vụ con người làm mục đích, tức là "tất cả vì con người". Mặt khác, lấy việc phát huy sức mạnh của con người làm động lực chủ yếu để xây dựng thành công CNXH, tức là "tất cả do con người". Các đặc trưng trong Cương lĩnh 2011, đồng thời, cũng thể hiện sự quán triệt sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh về CNXH: “Chủ nghĩa xã hội là làm sao cho dân giàu, nước mạnh..., là công bằng, hợp lý, mọi người đều được hưởng quyền tự do, dân chủ, được sống cuộc đời hạnh phúc...”, đặc biệt là sự tổng kết thực tiễn của Việt Nam, nhất là thực tiễn thời kỳ đổi mới. Những đặc trưng này biểu hiện như một kết cấu tổng thể, ổn định tương đối, nó không phải là một mô hình khép kín và cứng nhắc. Nó chứa đựng khả năng mở rộng nội hàm, tiếp tục bổ sung những nét mới là kết quả của việc không ngừng nâng cao trình độ lý luận và tổng kết thực tiễn phong phú, đa dạng. Nó là kết quả của sự kết hợp hài hòa cái phổ biến và cái đặc thù, cái chung và cái riêng để tạo nên một mô hình có tên gọi: chủ nghĩa xã hội Việt Nam. Nó thể hiện xu hướng gắn kết hợp lý tiến trình phát triển của CNXH với sự vận động không ngừng của nhân loại đi lên phía trước, kế thừa những thành tựu tiến bộ của loài người để xây dựng thành công CNXH.
Hệ thống chỉnh thể của CNXH Việt Nam (ngoài đặc trưng tổng quát) được thiết kế trên các trụ cột chính: Chính trị gồm: Nhân dân là chủ thể, là trung tâm của chế độ XHCN, Nhà nước pháp quyền XHCN là hình thức tối ưu thực hiện quyền làm chủ của nhân dân. Kinh tế là nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp. Đó là nền kinh tế thị trường định hướng XHCN giữ vị trí là mô hình kinh tế tổng quát trong suốt thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam, là nền kinh tế luôn gắn tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội. Văn hóa - xã hội là chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần của xã hội; văn hóa vừa thể hiện bản sắc dân tộc vừa có tính khoa học, hiện đại, phục vụ đại đa số nhân dân; con người được giải phóng và có điều kiện phát triển toàn diện. Về quan hệ giữa các dân tộc trong nước (đối nội) được thực hiện theo các nguyên tắc: Bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp nhau cùng tiến bộ và quan hệ với nhân dân thế giới (đối ngoại) thực hiện theo nguyên tắc: Hữu nghị và hợp tác… Hạt nhân của các trụ cột trong mô hình CNXH Việt Nam là sự lãnh đạo của Đảng, vai trò chủ thể, vị trí trung tâm là nhân dân. Đây là nhân tố quyết định thắng lợi sự nghiệp xây dựng CNXH ở Việt Nam.
Có thể nói, làm rõ những đặc trưng cơ bản của CNXH Việt Nam được coi là một trong những thành tựu lý luận quan trọng của Đảng ta trong thời kỳ đổi mới, thể hiện những giá trị cốt lõi của chủ nghĩa xã hội Việt Nam, là bản chất tốt đẹp, ưu việt riêng có của chủ nghĩa xã hội Việt Nam, khẳng định CNXH mà nhân dân Việt Nam xây dựng sẽ đáp ứng mục tiêu: một xã hội mà trong đó sự phát triển là thực sự vì con người, khác hẳn về chất so với tất cả các chế độ xã hội cạnh tranh để chiếm đoạt lợi ích riêng giữa các cá nhân và phe nhóm. Đây là một xã hội hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn, dựa trên nền tảng lợi ích chính đáng của con người, vì con người, do con người. Đây chính là mục tiêu, là con đường mà Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng và Nhân dân ta đã lựa chọn và đang kiên định, kiên trì theo đuổi[7].
2. Nhận thức và vận dụng lý luận Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội
Trong thời kỳ đổi mới, nghiên cứu lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tổng kết quá trình xây dựng đất nước thời kỳ trước đổi mới và thực tiễn xây dựng CNXH trên thế giới, để hiện thực hóa các đặc trưng trong mô hình chủ nghĩa xã hội Việt Nam, Đảng ta đã đề ra phương hướng, biện pháp xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Đây chính là nội dung cơ bản của con đường đi lên CNXH ở Việt Nam từ nay đến giữa thế kỷ XXI.
Trên cơ sở 7 phương hướng cơ bản xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong Cương lĩnh 1991[8], Đại hội lần thứ XI đã bổ sung và phát triển thành 8 phương hướng cơ bản[9]. Nó vừa phản ánh tính phổ biến theo tinh thần chủ nghĩa Mác - Lênin về con đường xây dựng CNXH vừa thể hiện tính đặc thù của dân tộc Việt Nam và xu thế khách quan của thời đại. Thực chất, đây là các nhiệm vụ, biện pháp cơ bản, tất yếu để hiện thực hóa mô hình CNXH Việt Nam trong bối cảnh mới. Nó phản ánh nội dung toàn diện các lĩnh vực xây dựng và phát triển đất nước theo mục tiêu phát triển bền vững, không chỉ là kinh tế - xã hội - môi trường mà còn phải chú trọng phát triển văn hóa, con người và bảo đảm sự ổn định, củng cố vững chắc chế độ chính trị với Nhà nước pháp quyền XHCN, nền dân chủ XHCN, vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng. Trong đó, nhấn mạnh tầm quan trọng đặc biệt của việc xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, có tiềm lực mạnh về quốc phòng, an ninh quốc gia để xây dựng CNXH gắn liền bảo vệ Tổ quốc XHCN.
Tám phương hướng nêu trên đã bao quát những điểm căn bản, chủ yếu trong đường lối, chính sách đối nội và đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta, thể hiện sự nhất quán của Đảng với các quan điểm đổi mới và phát triển.
Đảng ta đặt ở hàng đầu biện pháp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên môi trường. Nhận thức về vị trí, vai trò của công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước một cách toàn diện hơn: công nghiệp hóa gắn hiện đại hóa; gắn công nghiệp hóa, hiện đại hóa với phát triển kinh tế tri thức, tức là phù hợp xu thế phát triển của nhân loại; gắn công nghiệp hóa, hiện đại hóa với quản lý, sử dụng có hiệu quả tài nguyên, bảo vệ môi trường là phù hợp thực tế Việt Nam và kinh nghiệm của các nước đi trước đã thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa; gắn công nghiệp hóa, hiện đại hóa nói chung với công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn là phù hợp với thực tế Việt Nam. Đây là vấn đề cấp thiết nhất hiện nay trong giải quyết nhiệm vụ xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của CNXH. Đó là đòi hỏi tất yếu, do nước ta quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, điểm xuất phát rất lạc hậu. Không đẩy mạnh công nghiệp hóa không thể thực hiện bước chuyển đưa nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu thành một nước công nghiệp, không thể có nền kinh tế phát triển cao với năng suất lao động cao dựa trên khoa học - công nghệ, không thể có lực lượng sản xuất hiện đại. Cái mới trong sự phát triển nhận thức lý luận của Đảng ta về biện pháp xây CNXH là đẩy mạnh công nghiệp hóa là để đạt tới hiện đại hóa. Muốn vậy phải chủ động chuẩn bị các điều kiện để phát triển kinh tế tri thức, đặc biệt chú trọng bảo vệ tài nguyên, môi trường, vừa tiết kiệm và sử dụng có hiệu quả các nguồn tài nguyên vừa bảo vệ được môi trường, phòng tránh thảm họa môi trường và biến đổi khí hậu, nước biển dâng - một vấn đề toàn cầu mà Việt Nam không thể xem thường.
Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đã vạch rõ, cơ sở vật chất kỹ thuật của CNXH là nền sản xuất công nghiệp hiện đại với trình độ xã hội hóa cao. Đối với những nước thực hiện quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa như Việt Nam, để có một nền tảng cơ sở vật chất kỹ thuật như vậy, tất yếu phải thực hiện sự nghiệp công nghiệp hóa đất nước. Đó là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động kinh tế và quản lý kinh tế - xã hội từ sử dụng sức lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện, phương pháp tiên tiến, hiện đại nhằm tạo ra năng suất lao động xã hội cao. Do vậy, trong thời kỳ đổi mới, Đảng ta coi “đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước...” là nhiệm vụ hàng đầu trong việc thực hiện các biện pháp then chốt xây dựng CNXH ở Việt Nam.
Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN được nhận thức là một trong những thành tựu quan trọng trong các biện pháp xây dựng CNXH trong thời kỳ đổi mới. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định, “đưa ra quan niệm này là một đột phá lý luận rất cơ bản và sáng tạo của Đảng ta, là thành quả lý luận quan trọng của 35 năm thực hiện đường lối đổi mới, xuất phát từ thực tiễn Việt Nam và tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của thế giới”[10]. Phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam được coi như công cụ, phương tiện xây dựng CNXH. Mục đích của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là phát triển nhanh lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống của nhân dân. Định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường ở nước ta thể hiện rõ ở việc có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền XHCN bằng pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; thực hiện phân phối theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác vào sản xuất kinh doanh và thông qua an sinh xã hội, phúc lợi xã hội. Đảng ta xác định, đây chính là mô hình kinh tế tổng quát của Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên CNXH.
Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trở thành nền tảng tinh thần của xã hội được xác định là một trong 4 trụ cột phát triển đất nước. Biện pháp này là kết quả của sự tổng kết thực tiễn và tiếp thu, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cũng như những thành tựu văn hóa của thế giới. Đảng ta nhận thức văn hóa vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát triển đất nước, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Phát triển văn hóa tức là phát triển sức mạnh nội sinh, tạo động lực tinh thần để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; phát triển văn hóa đồng bộ, hài hòa với tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội được Đảng ta xác định là một định hướng căn bản của quá trình xây dựng CNXH ở Việt Nam.
Phản ánh nhận thức sâu sắc sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản là nhân tố quan trọng hàng đầu, có ý nghĩa quyết định mọi thắng lợi của công cuộc đổi mới và bảo đảm cho đất nước phát triển theo đúng định hướng XHCN. Do đó, phải “đặc biệt chú trọng công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, coi đây là nhiệm vụ then chốt, có ý nghĩa sống còn đối với Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa”[11]. Đây là bài học lớn đã được tổng kết và được kiểm nghiệm trong thực tiễn. Thành công hay thất bại của cách mạng Việt Nam từ khi có Đảng đều “phụ thuộc trước hết vào sự đúng đắn của đường lối, bản lĩnh chính trị, năng lực và sức chiến đấu của Đảng”. Vì vậy, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu và bản lĩnh cầm quyền của Đảng là luôn được coi là nhiệm vụ then chốt.
Việc xác định tám phương hướng xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH được coi là bước tiến quan trọng trong nhận thức lý luận của Đảng[12] và “thực hiện tốt các phương hướng trong Cương lĩnh 2011 sẽ dần định hướng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”[13].
3. Nhận thức và giải quyết các mối quan hệ lớn trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội thời kỳ đổi mới
Trên cơ sở 8 mối quan hệ lớn[14] được xác định tại Đại hội XI và tổng kết thực tiễn tổng kết 30 năm đổi mới, trong nhiệm kỳ Đại hội XII, Đảng đã bổ sung thêm một mối quan hệ lớn cần giải quyết trong quá trình xây dựng CNXH trong thời kỳ quá độ, đó là quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội[15]; đồng thời đã điều chỉnh mối quan hệ giữa kinh tế thị trường và định hướng XHCN thành quan hệ giữa tuân theo quy luật của thị trường với bảo đảm định hướng XHCN. Đến Đại hội XIII, do yêu cầu của thực tiễn, trên cơ sở 9 mối quan hệ đang được tập trung giải quyết, Đảng bổ sung thêm mối quan hệ lớn: Giữa thực hành dân chủ, tăng cường pháp chế và bảo đảm kỷ cương xã hội. Đến nay, tổng thể chúng ta phải nắm vững và giải quyết 10 mối quan hệ lớn trong quá trình xây dựng CNXH[16].
Việc nhận thức và giải quyết các mối quan hệ lớn đã được Đảng thực hiện trong mối liên hệ hữu cơ với nhận thức và từng bước hoàn thiện 8 đặc trưng bản chất của CNXH Việt Nam cũng như 8 phương hướng lớn xây dựng CNXH ở nước ta. Giải quyết đúng đắn các mối quan hệ đã tạo ra bước chuyển biến trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, từ kinh tế, chính trị đến văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng, đối ngoại. Chúng ta đã giữ vững được vai trò lãnh đạo của Đảng, tạo ra sự ổn định về chính trị trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước. Người dân tin tưởng vào đường lối đổi mới, vào sự lãnh đạo của Đảng, đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt. Hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố, tăng cường.
Thành tựu chủ yếu trong các mối quan hệ lớn cần nắm vững và xử lý thể hiện trước hết ở mối quan hệ lớn thứ nhất: Giữa đổi mới, ổn định và phát triển. Đây là mối quan hệ có vị trí tổng quát, bao trùm các mối quan hệ còn lại, đồng thời trong mối quan hệ này, ổn định là tiền đề và điều kiện, đổi mới là động lực, là phương thức, con đường tất yếu phải đi và phát triển là mục đích. Do vậy, giữ vững được ổn định, nhất là ổn định chính trị sẽ thực hiện được con đường đổi mới và mục đích phát triển. Để giữ vững ổn định (chính trị), nhất định phải nắm vững và giải quyết 9 mối quan hệ tiếp theo.
Các mối quan hệ còn lại phản ánh toàn diện đổi mới trên các lĩnh vực, các khía cạnh của đời sống xã hội, trong đó tính đồng bộ giữa đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị đã được Đảng ta nhận thức ngày càng đầy đủ, nhất là đổi mới chính trị, hệ thống chính trị phải đóng vai trò bảo đảm chính trị cho đổi mới kinh tế, đồng thời thúc đẩy kinh tế phát triển, không cản trở sự phát triển của kinh tế.
Nội hàm của đổi mới kinh tế, đổi mới chính trị và mối quan hệ biện chứng giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ngày càng được nhận thức đầy đủ, sâu sắc hơn. Không còn tư duy tuyệt đối hóa, xơ cứng, máy móc và siêu hình, nhấn mạnh một chiều về vai trò của đổi mới kinh tế hoặc chính trị; tư duy, nhận thức về mối quan hệ biện chứng giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ngày càng đầy đủ hơn, phù hợp với thực tiễn sống động của đời sống kinh tế và đời sống xã hội, mang “hơi thở” của cuộc sống.
Nhận rõ thực chất mối quan hệ giữa tuân theo các quy luật của kinh tế thị trường và bảo đảm định hướng XHCN là mối quan hệ giữa chủ quan và khách quan. Các quy luật của kinh tế thị trường (quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh...) là khách quan, định hướng XHCN là chủ quan, nhưng không phải là chủ quan duy ý chí hay giáo điều máy móc. Định hướng XHCN là chủ quan nhưng phải luôn dựa trên cơ sở vận dụng các quy luật khách quan của kinh tế thị trường. Nói rộng ra, đó là mối quan hệ giữa hai bộ phận cốt lõi của mô hình kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam, và cũng chính là hai bộ phận cốt lõi của một hình thái kinh tế - xã hội ra đời ở giai đoạn đầu. Mục tiêu giữ vững định hướng XHCN trong phát triển kinh tế thị trường là thực hiện "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh".
Nhận thức về mối quan hệ giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất XHCN có những bước tiến. (1) Về cơ chế quản lý kinh tế không ngừng được đổi mới, từ cơ chế quản lý tập trung, quan liêu, bao cấp đến cơ chế quản lý kinh tế gắn với yêu cầu phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước góp phần giải phóng và phát huy các tiềm năng trong xã hội. (2) Về chế độ phân phối có sự phát triển mới, xác định rõ vai trò của thị trường, nhà nước và nhân dân.
Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa và thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội luôn được xác định rõ ràng, nhất quán và xuyên suốt. Điều này được thể hiện ở chỗ tầm quan trọng và nội dung của mối quan hệ này được phát triển hơn và được nhắc đi, nhắc lại nhiều lần trong Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011), trong các văn kiện của Đại hội XI, XII và một số nghị quyết Trung ương. Nguyên tắc nhất quán trong giải quyết mối quan hệ này là “không đánh đổi xã hội, môi trường để tăng trưởng kinh tế”. Quan điểm có tính nguyên tắc này của Việt Nam hoàn toàn phủ hợp với quan điểm “phát triển bền vững”, “phát triển bao trùm” hiện đang được thảo luận nhiều trên thế giới cũng như tính xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường mà Việt Nam đang xây dựng và phát triển.
Đảng ta đặc biệt quan tâm bổ sung, phát triển tư duy lý luận, về mối quan hệ giữa xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc XHCN. (1) Nhận thức rõ tầm quan trọng của “Dựng nước đi đôi với giữ nước”. Bảo vệ là điều kiện để xây dựng; xây dựng tạo sức mạnh để bảo vệ, trong bảo vệ có xây dựng, trong xây dựng có bảo vệ, phòng ngừa nguy cơ chệch hướng XHCN. (2) Kết hợp chặt chẽ kinh tế, văn hóa, xã hội với quốc phòng, an ninh và quốc phòng, an ninh với kinh tế, văn hóa, xã hội trong từng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, chú trọng vùng sâu, vùng xa, biên giới, biển, đảo. (3) Kết hợp chặt chẽ giữa quốc phòng, an ninh và đối ngoại; tăng cường hợp tác quốc tế về quốc phòng, an ninh. (4) Xây dựng “thế trận lòng dân”, tạo nền tảng vững chắc xây dựng nền quốc phòng toàn dân và nền an ninh nhân dân. (5) Có kế sách ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa; chủ động phòng ngừa, phát hiện sớm và triệt tiêu các nhân tố bất lợi, nhất là các nhân tố bên trong có thể gây ra đột biến.
Hơn 35 năm đổi mới, Đảng ta đã xác định rõ hệ thống các quan điểm lý luận về CNXH và xây dựng CNXH ở Việt Nam với tám đặc trưng của xã hội XHCN, tám phương hướng xây dựng CNXH và mười mối quan hệ lớn của đổi mới và phát triển. Đó là thành tựu nổi bật của đổi mới tư duy lý luận và phát triển lý luận của Đảng ta. Tuy nhiên, như ý kiến của đồng chí Tổng Bí thư để trả lời đầy đủ, thuyết phục cho câu hỏi: chủ nghĩa xã hội là gì? và đi lên chủ nghĩa xã hội bằng cách nào? là điều không hề dễ dàng. Từ thực tiễn 35 năm đổi mới, từ tổng kết thực tiễn và lý luận, đi lên chủ nghĩa xã hội đối với Việt Nam còn nhiều khó khăn, thách thức. “Đó là một sự nghiệp sáng tạo vĩ đại, đầy thử thách, khó khăn, một sự nghiệp tự giác, liên tục, hướng đích lâu dài, không thể nóng vội”[17], phải “… tiếp tục phải suy nghĩ, tìm tòi, lựa chọn để từng bước hoàn thiện đường lối, quan điểm và tổ chức thực hiện sao cho vừa đúng quy luật chung, vừa phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam”[18]. Sự nghiệp này rất cần sự quyết tâm, đồng lòng của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân trên cơ sở kiên trì và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong quá trình lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội và phát huy sức mạnh của nhân dân. Trong đó, yếu tố quyết định thành công phụ thuộc trước hết vào sự đúng đắn của đường lối, bản lĩnh chính trị, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Đường lối của Đảng phải phù hợp lòng dân, phát huy được sức mạnh của nhân dân, được nhân dân ủng hộ và tham gia tích cực; phải xuất phát từ thực tiễn của đất nước và dân tộc mình, đồng thời phải tham khảo kinh nghiệm từ thực tiễn của thế giới và thời đại./.
PGS.TS Đỗ Thị Thạch
Học viện CTQG Hồ Chí Minh
[1] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb.CTQG, H.2011, tr.69
[2] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. CTQG, H.2011, t.12, tr.563
[3] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb.CTQG, H.2011, tr.70
[4] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. CTQGST, H, 2021, t.I tr.104
[5] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. CTQG, H.2001, t.51, tr.138
[6] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. CTQG, H.2021, tr.70
7 Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb. CTQGST, H.2022, tr. 9, 22, 28
8 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb, CTQG, H.2001, tập 51, tr.139-140
[10] Xem Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam, Nxb. CTQGST, H.2022, tr.25
[11] Xem Nguyễn Phú Trọng: Sđd, tr.29 Hội đồng Lý luận Trung ương: 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2020, tr 49.
[13] Xem Đảng Cộng sản Việt Nam: Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận – thực tiễn qua 30 năm đổi mới (1986-2016), Nxb. CTQG, H. 2015, tr 212.
[14] Đảng Cộng sản Việt Nam:Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Sđd, tr.72
[15] Xem: Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. CTQG, H.2016, tr.80
[16] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd , t.I, tr.119
[17] Xem: Nguyễn Phú Trọng: Sđd, tr.36
[18] Xem: Nguyễn Phú Trọng: Sđd, tr.23