Kế thừa và phát huy những thành tựu và bài học kinh nghiệm lãnh đạo văn hóa trong thời kỳ đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, bước vào thời kỳ hòa bình, xây dựng đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội (từ 1975 đến 2025), Đảng ta luôn luôn phát huy vai trò lãnh đạo để xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát huy giá trị văn hóa và sức mạnh con người Việt Nam nhằm thực hiện khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc.
Ảnh minh họa - TL
1. Nhận thức về vai trò lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực văn hóa
Vai trò lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực văn hóa đã được Đảng ta khẳng định rất sớm ngay từ Cương lĩnh năm 1930 và được thể hiện tập trung ở Đề cương Văn hóa Việt Nam năm 1943 của Đảng. Sự lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực văn hóa vừa thể hiện tính tất yếu khách quan của cuộc cách mạng xã hội xã hội chủ nghĩa do Đảng lãnh đạo, vừa thể hiện nhu cầu cơ bản và cấp bách của thực tiễn cách mạng Việt Nam. Sự lãnh đạo văn hóa của Đảng đã được thể hiện trong suốt hai cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc, góp phần quan trọng vào cổ vũ, động viên các tầng lớp nhân dân vừa kiến quốc, vừa kháng chiến để giành lại độc lập dân tộc, thống nhất đất nước.
Vai trò lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực văn hóa được Đảng ta xác định thông qua các nhiệm vụ:
Thứ nhất, xây dựng đường lối, chính sách phát triển văn hóa để văn hóa phát triển theo đúng định hướng chính trị và đảm bảo tự do sáng tạo, cổ vũ nhân dân tham gia vào xây dựng và phát triển văn hóa.
Thứ hai, lãnh đạo về tư tưởng và giá trị văn hóa. Đảng xác định các giá trị và các chuẩn mực định hướng cho mọi hoạt động văn hóa. Xây dựng hệ tư tưởng chỉ đạo nhằm thống nhất về tư tưởng, ý chí chung của xã hội trong xây dựng và phát triển đất nước. Đảng ta đã khẳng định chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng để xây dựng nền văn hóa mới. Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là nội dung cốt lõi của nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc với đặc trưng cơ bản là dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học.
Thứ ba, Đảng lãnh đạo thông qua việc định hướng và giám sát quá trình thực hiện các Nghị quyết của Đảng đối với tổ chức Đảng, các cơ quan quản lý Nhà nước, các cấp, nhất là quá trình thể chế hóa các quan điểm của Đảng thành luật pháp để thực hiện trong hoạt động thực tiễn.
Thứ tư, Đảng lãnh đạo và chỉ đạo hoạt động của các đoàn thể chính trị -xã hội, tổ chức Liên hiệp các hội văn học, nghệ thuật, tập hợp lực lượng và khuyến khích sự sáng tạo của đội ngũ trí thức văn nghệ sĩ và các nhà hoạt động văn hóa, nghệ thuật sáng tạo phục vụ đất nước, phục vụ nhân dân.
Thứ năm, Đảng lãnh đạo công tác tuyên truyền và giáo dục văn hóa cho xã hội. Thông qua các cơ quan ngôn luận của Đảng, Nhà nước và các đoàn thể chính trị - xã hội, Đảng lãnh đạo công tác tuyên truyền, giáo dục nhằm nâng cao nhận thức cho toàn Đảng, toàn dân về vai trò, nhiệm vụ xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu của mỗi giai đoạn lịch sử, khuyến khích, cổ vũ, động viên nhân dân tham gia xây dựng và phát triển sự nghiệp văn hóa.
Thứ sáu, Đảng lãnh đạo, chỉ đạo đường lối văn hóa đối ngoại, xây dựng chủ chương, chính sách, định hướng cho lĩnh vực giao lưu, hợp tác quốc tế về văn hóa, nhằm tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau và nâng cao hình ảnh văn hóa Việt Nam ra thế giới.
Thứ bảy, Đảng lãnh đạo thông qua việc định hướng xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý, cán bộ chuyên môn hoạt động trên lĩnh vực văn hóa, văn nghệ. Đảng giới thiệu đội ngũ cán bộ có năng lực, có chuyên môn và phẩm chất tốt tham gia vào công tác lãnh đạo, quản lý văn hóa ở các cấp.
Thứ tám, Đảng thường xuyên tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận, xây dựng và hoàn thiện đường lối, chính sách phát triển văn hóa, đáp ứng nhu cầu của thực tiễn đề ra.
Thứ chín, Đảng tiến hành công tác kiểm tra, giám sát thực hiện các Nghị quyết của Đảng về văn hóa, xử lý kịp thời những vấn đề nảy sinh trong hoạt động thực tiễn về xây dựng và phát triển văn học…
Như vậy, nhìn một cách khái quát, vai trò lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực văn hóa phải được cụ thể hóa gắn liền với các nội dung chủ yếu ở trên. Vai trò này đã được Đảng ta thể hiện rõ trong hoạt động lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực văn hóa suốt 50 năm sau ngày thống nhất đất nước 1975 đến nay.
2. Những thành tựu nổi bật thể hiện vai trò lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực văn hóa
1). Bám sát thực tiễn để ra đường lối, chủ trương, chính sách xây dựng và phát triển văn hóa đáp ứng yêu cầu của cách mạng.
Trong 10 năm đầu sau ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (từ 1975 – 1985), xuất phát từ yêu cầu thực tiễn, Đảng ta tập trung lãnh đạo để cải tạo hệ thống văn hóa, giáo dục chịu ảnh hưởng của chế độ Mỹ - Ngụy ở miền Nam, khôi phục các cơ sở văn hóa, giáo dục ở cả hai miền bị tàn phá do chiến tranh, từng bước xây dựng đời sống văn hóa mới, tổ chức sắp xếp, xây dựng và thống nhất về thể chế quản lý văn hóa thống nhất trên phạm vi cả nước.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng (1976), Đảng ta đã khẳng định quyết tâm “đẩy mạnh cách mạng tư tưởng và văn hóa, xây dựng và phát triển nền văn hóa mới” trên phạm vi cả nước. Nhiệm vụ trọng tâm của cuộc cách mạng này là xây dựng con người mới, xây dựng nền văn hóa mới; tuyên truyền, giáo dục chủ nghĩa Mác – Lê nin và đường lối, chính sách của Đảng thấu suốt trong cán bộ, đảng viên và nhân dân, tiến hành đấu tranh chống tư tưởng và văn hóa phản động của chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dân … Đảng ta yêu cầu tập trung vào cải cách giáo dục trong cả nước, đẩy mạnh sự nghiệp phát triển khoa học, văn học, nghệ thuật; tăng cường giáo dục tư tưởng xã hội chủ nghĩa, chống tư tưởng tư sản và tàn dư của tư tưởng phong kiến, phê phán tư tưởng tiểu tư sản, xóa bỏ ảnh hưởng của tư tưởng và “văn hóa” của chủ nghĩa thực dân mới ở miền Nam. Đồng thời, tại Đại hội này, Đảng ta đã nhấn mạnh vai trò và trách nhiệm của các lĩnh vực báo chí, thông tấn, xuất bản, thông tin, truyền thanh, truyền hình, điện ảnh, nhiếp ảnh trên mặt trận văn hóa và tư tưởng. Phương hướng lớn mà Đại hội IV của Đảng đề ra là phải phát triển mạnh mẽ công tác giáo dục, văn hóa, văn nghệ để xây dựng nền văn hóa có nội dung xã hội chủ nghĩa và tính dân tộc, có tính đảng và tính nhân dân sâu sắc.
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng (tháng 3/1982) tiếp tục khẳng định phương hướng, nội dung, nhiệm vụ để phát triển văn hóa trong thời kỳ mới. Đại hội nhấn mạnh đến phương hướng chung là ra sức phát triển và nâng cao chất lượng hoạt động văn hóa, văn nghệ thích hợp với từng lứa tuổi, từng địa phương, từng dân tộc. Mở rộng hơn nữa phong trào văn hóa, văn nghệ quần chúng, gắn bó với phong trào sản xuất và chiến đấu, tạo cơ sở và nguồn lực nuôi dưỡng nền văn hóa mới.
Đại hội V của Đảng đặc biệt nhấn mạnh đến xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở, đảm bảo mỗi nhà máy, công trường, lâm trường, mỗi đơn vị lực lượng vũ trang, công an nhân dân, mỗi cơ quan, trường học, bệnh viện, cửa hàng, mỗi xã, phường, ấp đều có đời sống văn hóa … Chú trọng xây dựng các thiết chế văn hóa, nhất là ở nông thôn, vùng đồng bào các dân tộc thiểu số … Đồng thời Đại hội V đã đề xuất quan điểm mới về xã hội hóa các hoạt động văn hóa với phương châm Nhà nước và nhân dân cùng làm.
Có thể nói, sự lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực văn hóa trong thời kỳ 10 năm đầu sau ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước đã tập trung vào giải quyết thành công những nhiệm vụ to lớn đặt ra. Đó là cải tạo nền văn hóa cũ ở miền Nam dưới thời Mỹ - Ngụy, thống nhất về thể chế và thiết chế quản lý văn hóa trên phạm vi cả nước, khôi phục và phát triển các hoạt động văn hóa, văn nghệ; xây dựng và hoàn thiện từng bước các thiết chế văn hóa, văn nghệ từ Trung ương đến địa phương; đẩy mạnh phong trào văn hóa, văn nghệ quần chúng và phong trào xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở. Những thành tựu trên lĩnh vực xây dựng và phát triển văn hóa trong giai đoạn này góp phần quan trọng vào xây dựng nền tảng tinh thần của xã hội, phát huy sức mạnh toàn dân tộc trong cuộc kháng chiến bảo vệ biên giới phía Tây Nam và biên giới phía Bắc, từng bước tháo gỡ khó khăn và khủng hoảng kinh tế, chuẩn bị tiền đề cho đất nước bước vào thực hiện công cuộc đổi mới sau này.
Từ năm 1986 đến nay, bước vào thời kỳ đổi mới toàn diện đất nước vì mục tiêu: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, cùng với quá trình nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại, vai trò lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực văn hóa đã được nâng lên ở tầm cao mới. Vai trò lãnh đạo này được thể hiện tập trung ở việc xây dựng tầm nhìn chiến lược để xây dựng và phát triển văn hóa và con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước. Tầm nhìn chiến lược về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam được thể hiện tập trung trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (1991) và Cương lĩnh (Bổ sung và phát triển năm 2011). Trong Cương lĩnh (năm 1991), Đảng ta đã xác định: Nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc và xây dựng con người có điều kiện phát triển toàn diện, trở thành một trong những mục tiêu và đặc trưng của chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa mà chúng ta hướng tới. Trong Cương lĩnh này, Đảng ta khẳng định: “Xây dựng nền văn hóa mới, tạo ra một đời sống tinh thần cao đẹp, phong phú và đa dạng, có nội dung nhân đạo, dân chủ, tiến bộ”[1].
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng (2001) đã cụ thể hóa tư tưởng chỉ đạo của Cương lĩnh 1991 về văn hóa trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đại hội nêu rõ vai trò và mục tiêu của mọi hoạt động văn hóa, văn nghệ trong bối cảnh mới: “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Mọi hoạt động văn hóa, văn nghệ phải nhằm xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng con người Việt Nam về tư tưởng, đạo đức, tâm hồn, tình cảm, lối sống, xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh cho sự phát triển xã hội”[2].
Trên cơ sở tổng kết quá trình lãnh đạo văn hóa trong thời kỳ 12 năm tiến hành sự nghiệp Đổi mới, Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ năm khóa VIII (1998) đã ban hành một Nghị quyết quan trọng, có ý nghĩa chiến lược về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc .
Trong Nghị quyết này, Đảng ta đã xác định phương hướng, đề ra 5 quan điểm, 10 nhiệm vụ và 4 giải pháp lớn. Trong đó, Đảng ta nhấn mạnh đến giải pháp nâng cao vai trò và hiệu quả lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực văn hóa.
Nghị quyết xác định: Yêu cầu xây dựng và phát triển đất nước trong giai đoạn mới đòi hỏi Đảng ta phải tăng cường và nâng tầm lãnh đạo trên lĩnh vực văn hóa. Để tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực văn hóa, Đảng ta xác định một số nội dung quan trọng là nâng cao nhận thức về vai trò đặc biệt quan trọng của văn hóa trong việc bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người, xây dựng xã hội mới, khắc phục thái độ xem nhẹ việc xây dựng và đấu tranh trên lĩnh vực văn hóa; chú trọng xây dựng đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ; đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực văn hóa; phát huy vai trò của các tổ chức đoàn thể quần chúng, các tổ chức sáng tạo văn hóa, văn nghệ trong việc vận động, tổ chức quần chúng, giới trí thức thục hiện nhiệm vụ văn hóa; chỉ đạo các cơ quan quản lý nhà nước thể chế hóa các chủ trương, chính sách của Đảng trên lĩnh vực văn hóa; chú trọng xây dựng văn hóa từ trong Đảng, trong bộ máy nhà nước, đẩy mạnh việc giáo dục tư tưởng, đạo đức lối sống, nêu cao tinh thần gương mẫu; thực hiện nghiêm túc công tác kiểm tra của Đảng … Có thể nói đây là những nhiệm vụ mang tính đồng bộ và toàn diện để nâng cao vai trò và năng lực lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực văn hóa trong bối cảnh đẩy mạnh toàn diện sự nghiệp đổi mới đất nước.
Quá trình triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII đã tạo nên sự chuyển biến tích cực và toàn diện nhằm làm cho văn hóa thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, tạo nên sự thay đổi trong nhận thức và hành động của các tổ chức Đảng và chính quyền, đoàn thể chính trị - xã hội ở các cấp, các ngành, các địa phương.
Kiểm điểm 5 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 10 khóa IX đã ban hành kết luận: Về tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII về “Xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” trong những năm sắp tới”. Kết luận này đã đặt vấn đề phát triển văn hóa gắn kết với kinh tế và chính trị khi xác định: “Đảm bảo sự gắn kết giữa nhiệm vụ phát triển kinh tế là trọng tâm, xây dựng chỉnh đốn Đảng là then chốt với không ngừng nâng cao văn hóa - nền tảng tinh thần của xã hội; tạo nên sự phát triển đồng bộ của ba lĩnh vực trên chính là điều kiện quyết định đảm bảo cho sự phát triển bền vững của đất nước”.
Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung và phát triển năm 2011) tiếp tục xác định: “Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng con người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội”[3] là một trong tám phương hướng cơ bản để thực hiện mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ, trước hết là mục tiêu đến giữa thế kỷ XXI phấn đấu xây dựng nước ta “trở thành một nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”[4].
Cương lĩnh (Bổ sung và phát triển năm 2011) đã xác định: “Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển toàn diện, thống nhất trong đa dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ, tiến bộ, làm cho văn hóa gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành nền tảng tinh thần vững chắc, sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển”[5]. Đồng thời, Cương lĩnh đã nhấn mạnh: “Con người là trung tâm của chiến lược phát triển, đồng thời là chủ thể phát triển. Tôn trọng và bảo vệ quyền con người, gắn quyền con người với quyền và lợi ích của dân tộc, đất nước và quyền làm chủ của nhân dân”[6].
Tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII (1998), và triển khai tư tưởng chỉ đạo của Cương lĩnh (Bổ sung và phát triển năm 2011), Hội nghị Ban Chấp hành trung ương lần thứ 9 khóa XI đã ban hành Nghị quyết mới: “Về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước”. Nghị quyết đã xác định mục tiêu chung và mục tiêu cụ thể, nêu các quan điểm, nhiệm vụ và giải pháp để phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước.
Sơ kết 5 năm thực hiện Nghị quyết số 33 – NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI Về Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước, Bộ Chính trị khóa XII đã ban hành Kết luận số 76 – KL/TW Về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 33 – NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI Về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước.
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đặc biệt quan tâm đến phát huy vai trò của văn hóa trong thực hiện khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc. Trong định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021 – 2030, Đảng ta nêu rõ: “Phát triển con người toàn diện và xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc để văn hóa thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc”[7]. Về phương hướng xây dựng và phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam, Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh yêu cầu: “Tập trung nghiên cứu, xác định và triển khai xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa, và chuẩn mực con người gắn với giữ gìn, phát triển hệ gia đình Việt Nam trong thời kỳ mới”[8]. Tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc ngày 24/11/2021, nhằm triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã có bài phát biểu rất quan trọng để chỉ đạo các tổ chức đảng, các ngành, các cấp thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng về văn hóa, con người trong bối cảnh mới.
Bên cạnh các văn kiện của Đảng qua các kỳ Đại hội và các Nghị quyết của Trung ương chuyên bàn về văn hóa, Đảng ta còn có các Nghị quyết, Quyết định của Bộ Chính trị, Ban Bí thư Trung ương Đảng, Ban Tuyên giáo Trung ương … về các lĩnh vực như văn học, nghệ thuật, báo chí xuất bản, thư viện, xây dựng lối sống, nếp sống … góp phần cụ thể hóa đường lối phát triển văn hóa của Đảng đối với từng lĩnh vực. Nhìn lại suốt 50 năm vừa qua, mặc dù có thời kỳ gặp nhiều khó khăn, thách thức, Đảng ta luôn quan tâm đến văn hóa và ban hành kịp thời các Nghị quyết quan trọng để lãnh đạo sự nghiệp xây dựng phát triển văn hóa, con người đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước.
2). Nội dung, nhiệm vụ và phương thức lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực văn hóa ngày càng được triển khai đồng bộ, toàn diện và sâu sắc hơn.
Trong suốt 50 năm vừa qua, trong quá trình lãnh đạo văn hóa, Đảng ta đã không ngừng bổ sung, phát triển những quan điểm chỉ đạo, nội dung, nhiệm vụ mới.
Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII (1998) của Đảng đã xác định khái niệm văn hóa được sử dụng để lãnh đạo của Đảng bao gồm tất cả các lĩnh vực liên quan đến đời sống tinh thần của xã hội, từ tư tưởng đạo đức, lối sống; môi trường văn hóa; giáo dục đào tạo, khoa học công nghệ; di sản văn hóa; văn học nghệ thuật; thông tin đại chúng; văn hóa trong tôn giáo; văn hóa trong đồng bào các dân tộc thiểu số; thể chế văn hóa; giao lưu quốc tế về văn hóa. Như vậy, đối tượng lãnh đạo của Đảng trên các lĩnh vực văn hóa cụ thể ngày càng bao quát rộng rãi và toàn diện, trong đó, Đảng ta nhấn mạnh đến xây dựng tư tưởng, đạo đức, lối sống và đời sống văn hóa là những lĩnh vực quan trọng nhất, cần được quan tâm đặc biệt.
Về quan điểm chỉ đạo, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII đã xác định 5 quan điểm chỉ đạo gồm:
- Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội.
- Nền văn hóa mà chúng ta xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
- Nền văn hóa Việt Nam là nền văn hóa thống nhất mà đa dạng trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam.
- Xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh đạo, trong đó đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng.
- Văn hóa là một mặt trận, xây dựng và phát triển văn hóa là một sự nghiệp lâu dài, đòi hỏi phải có ý chí cách mạng và sự kiên trì, thận trọng.
Trong hệ thống các quan điểm này đã bao hàm toàn diện những vấn đề cơ bản và cốt lõi, từ xác định vai trò, vị trí của văn hóa tới phương hướng, đặc trưng, chủ thể và đặc thù của sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa.
Trên cơ sở này, Nghi quyết nêu rõ 10 nhiệm vụ xây dựng và phát triển văn hóa gồm:
Xây dựng con người Việt Nam; Xây dựng môi trường văn hóa; Phát triển sự nghiệp văn học, nghệ thuật; Bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa; Phát triển sự nghiệp giáo dục – đào tạo và khoa học công nghệ; Phát triển đi đôi với quản lý tốt hệ thống thông tin đại chúng; Chính sách văn hóa đối với tôn giáo; Mở rộng hợp tác quốc tế về văn hóa; Củng cố, xây dựng và hoàn thiện thể chế văn hóa. Trong đó, Đảng ta đặt trọng tâm vào “nhiệm vụ xây dựng tư tưởng, đạo đức, lối sống và đời sống văn hóa lành mạnh trong xã hội, trước hết là trong các tổ chức Đảng và Nhà nước, trong các đoàn thể quần chúng và trong từng gia đình”[9].
Những phương hướng, quan điểm, nhiệm vụ và giải pháp mà Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII đã được triển khai một cách sâu rộng, được các cấp ủy và chính quyền, đoàn thể các cấp, các ngành cụ thể hóa thành các chương trình hành động, tạo nên một phong trào quần chúng rộng khắp để xây dựng và phát triển sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 9 khóa XI (2014) đã ban hành Nghị quyết số 33 – NQ/TW Về Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước. Tư tưởng cơ bản của Nghị quyết này là gắn kết chặt chẽ hơn nữa giữa xây dựng văn hóa với phát triển con người hướng tới đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước. Mục tiêu chung là: “Xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân – thiện – mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học. Văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng để đảm bảo sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”[10].
Kế thừa các nội dụng trong văn kiện Đại hội IX, X, XI về văn hóa, Nghị quyết này nhấn mạnh mục tiêu cụ thể đầu tiên là: “Hoàn thiện các chuẩn mực giá trị văn hóa và con người Việt Nam, tạo môi trường và điều kiện để phát triển về nhân cách, đạo đức, trí tuệ, năng lực sáng tạo, thể chất, tâm hồn, trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân, ý thức tuân thủ pháp luật, đề cao tinh thần yêu nước, tự hào dân tộc, lương tâm, trách nhiệm của mỗi người với bản thân mình, với gia đình, cộng đồng, xã hội và đất nước”[11]. Nghị quyết này đã tiếp thu, kế thừa và bổ sung một số quan điểm mới. Các quan điểm chỉ đạo gồm:
- Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, mục tiêu, động lực phát triển bền vững đất nước. Văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội.
- Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, thống nhất trong đa dạng của các cộng đồng dân tộc Việt Nam, với các đặc trưng dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học.
- Phát triển văn hóa vì sự hoàn thiện nhân cách con người và xây dựng con người để phát triển văn hóa. Trong xây dựng văn hóa, trọng tâm là chăm lo xây dựng con người có nhân cách, lối sống tốt đẹp với các đặc tính cơ bản: yêu nước, nhân ái, nghĩa tình, trung thực, đoàn kết, cần cù, sáng tạo.
- Xây dựng đồng bộ môi trường văn hóa, trong đó có vai trò của gia đình, cộng đồng. Phát triển hài hòa giữa kinh tế và văn hóa; cần chú ý đầy đủ đến yếu tố văn hóa và con người trong phát triển kinh tế.
- Xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp của nhân dân do Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân là chủ thể sáng tạo, đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng[12].
Trong các quan điểm này, Đảng ta bổ sung và nhấn mạnh một số nội dung mới là:
- Phải đặt văn hóa ngang tầm với chính trị và kinh tế
- Làm rõ đặc trưng của nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học.
- Khẳng định mục tiêu của phát triển văn hóa là hướng tới xây dựng nhân cách con người là trọng tâm với các đặc tính cơ bản là yêu nước, nhân ái, nghĩa tình, trung thực, đoàn kết, cần cù, sáng tạo.
- Nhấn mạnh vai trò chủ thể sáng tạo văn hóa là nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng.
Đồng thời, trong Nghị quyết này, Đảng ta bổ sung các nhiệm vụ mới là: Xây dựng văn hóa trong chính trị và trong kinh tế; Nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động văn hóa; Phát triển công nghiệp văn hóa đi đôi với xây dựng, hoàn thiện thị trường văn hóa. Đây là nhiệm vụ rất quan trọng liên quan đến mối quan hệ giữa văn hóa với chính trị và kinh tế, khẳng định vai trò động lực và nguồn lực của văn hóa đối với sự phát triển kinh tế - xã hội và xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh. Để phát huy giá trị văn hóa trở thành “sức mạnh mềm” của đất nước trong giao lưu và hội nhập quốc tế, Đảng ta chủ trương phát triển văn hóa đối ngoại và Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Chiến lược phát triển văn hóa đối ngoại của Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 (theo Quyết định số 210/QĐ/TTg ngày 8/2/2015).
Đứng trước quá trình đẩy mạnh phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, Đảng ta đặc biệt chú ý đến vấn đề xây dựng hệ giá trị văn hóa và chuẩn mực con người Việt Nam được nêu trong Nghị quyết này. Đại hội XIII của Đảng tiếp tục khẳng định: “Xây dựng và phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh của con người Việt Nam”. Đại hội yêu cầu: “Tập trung nghiên cứu, xác định và triển khai hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa và chuẩn mực con người gắn với giữ gìn, phát triển hệ giá trị gia đình Việt Nam trong thời kỳ mới”[13].
Trong quá trình lãnh đạo, Đảng ta luôn quan tâm giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường. Đồng thời, Đảng ta đã khái quát những nhiệm vụ cơ bản để phát triển bền vững hiện nay là: Phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt, phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, đảm bảo quốc phòng an ninh là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên.
Như vậy, mục tiêu xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh và bền vững đất nước không phải chỉ yêu cầu xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc mà còn phát huy giá trị văn hóa và sức mạnh con người Việt Nam thực hiện khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc. Văn hóa phải gắn kết chặt chẽ với chính trị, kinh tế, xã hội, trở thành động lực, mục tiêu và nguồn lực cho sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước. Vì vậy, trong văn kiện Đại hội XIII vừa qua, Đảng ta đã nhấn mạnh vai trò của nhân tố văn hóa và con người trong phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, từ mục tiêu, phương hướng, quan điểm, khâu đột phá và nhiệm vụ trọng tâm trong nhiệm kỳ Đại hội. Từ đó, vai trò lãnh đạo văn hóa của Đảng ngày càng được khẳng định và mang tính toàn diện, cụ thể, sâu sắc, mang tính thực tiễn cao hơn. Điều này thể hiện ở quyết tâm chính trị của Đảng trong chỉ đạo, lãnh đạo nâng cao chất lượng toàn diện nhiệm vụ xây dựng con người và môi trường văn hóa, trong các hoạt động bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa, phát triển văn học, nghệ thuật, thông tin đại chúng, trong xây dựng văn hóa trong chính trị và trong kinh tế; phát triển các ngành công nghiệp văn hóa và thị trường văn hóa, phát triển văn hóa đối ngoại.
Trong quá trình lãnh đạo văn hóa trong 50 năm qua, Đảng ta không ngừng đổi mới phương thức lãnh đạo theo hướng vừa đảm bảo định hướng chính trị, vừa phát huy quyền tự do, dân chủ, tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho các chủ thể khác nhau phát huy vai trò, trách nhiệm và năng lực của mình để xây dựng, phát triển văn hóa, con người đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh và bền vững đất nước.
Đường lối phát triển văn hóa của Đảng đảm bảo tính tư tưởng, tính khoa học và tính thực tiễn, góp phần phát huy chủ nghĩa yêu nước và truyền thống cách mạng của dân tộc, tăng cường và củng cố khố đại đoàn kết toàn dân để xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, tạo lập nền tảng tinh thần lành mạnh, làm động lực thúc đẩy sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, góp phần cùng các lĩnh vực khác làm nên những thắng lợi to lớn, có ý nghĩa lịch sử, xây dựng cơ đồ, vị thế, tiềm lực và uy tín quốc tế của Việt Nam trên trường quốc tế.
Nhìn lại 50 năm lãnh đạo văn hóa của Đảng, bên cạnh những thành tựu nổi bật trong quá trình thực hiện các mục tiêu, quan điểm, nhiệm vụ và giải pháp xây dựng, phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh và bền vững đất nước, chúng ta cũng cần chỉ rõ những hạn chế trong công tác lãnh đạo văn hóa của Đảng. Đó là tình trạng nhận thức về vai trò, vị trí của văn hóa, con người trong phát triển đất nước chưa được đồng bộ trong cán bộ, đảng viên và xã hội. Vấn đề tu dưỡng, rèn luyện, xây dựng con người chưa được quan tâm đúng mức. Tình trạng tha hóa về đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong cán bộ, đảng viên chưa được ngăn chặn hiệu quả. Việc thể chế hóa đường lối, chủ trương phát triển văn hóa còn chậm. Đầu tư cho văn hóa chưa tương xứng với vai trò, vị thế của văn hóa trong phát triển. Nguồn lực để xây dựng và phát triển văn hóa còn thiếu và yếu. Việc tổ chức triển khai các Nghị quyết của Đảng về văn hóa chưa đồng bộ, chưa thường xuyên. Công tác chăm lo, xây dựng đội ngũ cán bộ làm văn hóa và đội ngũ trí thức văn nghệ sĩ chưa được quan tâm đúng mức … Vì vậy, để nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực văn hóa và xây dựng con người, Đảng phải không ngừng phát huy những thành tựu đạt được, khắc phục những hạn chế, yếu kém trên, tạo ra xung lực mới để phát huy vai trò của văn hóa trong thực hiện khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc.
PGS. TS Phạm Duy Đức
[1] ĐCSVN. Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới (Đại hội VI, VII, VIII, IX). NXB CTQG. HN, 2005, tr 322
[2] ĐCSVN. Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới (Đại hội VI, VII, VIII, IX). NXB CTQG. HN, 2005, tr 493 – 494.
[3] ĐCSVN. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI. NXB CTQG. HN, 2011, tr 71
[4] ĐCSVN. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI. NXB CTQG. HN, 2011, tr 71
[5] Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI. Sđd, tr 75 - 76
[6] Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI. Sđd, tr 75 - 76
[7] ĐCSVN. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập 1. NXB CTQG ST. HN, 2021, tr 115 - 116
[8] ĐCSVN. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập 1. NXB CTQG ST. HN, 2021, tr 115 - 116
[9] ĐCSVN. Văn kiện Hội nghị lần thứ năm BCH TƯ khóa VIII. NXB CTQG. HN, 1998, tr 69
[10] ĐCSVN. Văn kiện Hội nghị lần thứ 9 BCH TƯ khóa XI. Văn phòng TƯ Đảng. HN, 2014, tr 46 - 47
[11] ĐCSVN. Văn kiện Hội nghị lần thứ 9 BCH TƯ khóa XI. Văn phòng TƯ Đảng. HN, 2014, tr 47
[12] ĐCSVN. Văn kiện Hội nghị lần thứ 9 BCH TƯ khóa XI. Văn phòng TƯ Đảng. HN, 2014, tr 48 - 49
[13] DDCSVN. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập 1. NXB CTQG ST. HN, 2021, tr 143