08/11/2024 lúc 18:48 (GMT+7)
Breaking News

Nhận thức và giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị trong quá trình đổi mới

Giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị là một nội dung cốt lõi quan trọng trong các quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam trong đổi mới từ 1986 đến nay. Việc nhận thức và giải quyết đúng đắn vấn đề này cũng là khâu đột phá trong tư duy và thực tiễn lãnh đạo sự nghiệp đổi mới của Đảng.

Không phải ngẫu nhiên mà quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị là một trong mười mối quan hệ lớn mà các Đại hội XI, XII, XIII của Đảng luôn xác định cần nhận thức và giải quyết đúng đắn. Mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị có vị trí quan trọng hàng đầu trong sự nghiệp đổi mới. Bởi lẽ, kinh tế là nền tảng của đời sống xã hội, xét đến cùng quyết định các mặt còn lại của đời sống xã hội. Còn chính trị liên quan tới vấn đề lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, đến việc sử dụng quyền lực nhà nước, đến phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Đây là những vấn đề phức tạp và nhạy cảm liên quan tới vận mệnh quốc gia và số phận của đông đảo nhân dân.

Đại hội XIII Đảng Cộng sản Việt Nam. Ảnh: TL

Nhận thức và giải quyết mối quan hệ về đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Thời kỳ trước đổi mới (1986), có thể nói về nhận thức, chúng ta đã nhấn mạnh thái quá vấn đề chính trị trong mối quan hệ với kinh tế; chưa nhận thức đúng vai trò của kinh tế trong quan hệ với chính trị. Về cơ chế quan hệ giữa kinh tế và chính trị, chúng ta cũng nhận thức giản đơn nên chính trị can thiệp quá sâu vào kinh tế bằng hệ thống những mệnh lệnh hành chính của các cơ quan quản lý nhà nước các cấp. Về thiết chế chính trị, bộ máy hành chính nhà nước còn cồng kềnh, quan liêu, hoạt động kém hiệu quả.

Những nhận thức và giải quyết mối quan hệ kinh tế và chính trị này đã dẫn tới hệ lụy là kinh tế-xã hội không phát triển, đời sống nhân dân khó khăn. Do vậy, chúng ta phải đổi mới, tuy nhiên “Đổi mới tư duy không có nghĩa là phủ nhận những thành tựu lý luận đã đạt được, phủ nhận những quy luật phổ biến của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, phủ nhận đường lối đúng đắn đã được xác định, trái lại, chính là bổ sung và phát triển những thành tựu ấy”[1].

Từ khi đổi mới đến nay, về quan điểm chung, Đảng ta chủ trương “Kết hợp ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đồng thời từng bước đổi mới chính trị”[2]. Đây là nhận thức đúng cả về mặt lý luận cả về mặt thực tiễn và Đảng ta đã quán triệt tốt trên thực tế. "Đổi mới kinh tế" ở Việt Nam được hiểu là quá trình chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế tập trung, bao cấp, chủ yếu dựa trên chế độ sở hữu toàn dân và tập thể sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó là bước chuyển từ nền kinh tế cơ bản là “khép kín” sang nền kinh tế "mở", hội nhập, kết hợp tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo vệ môi trường và từng bước đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, gắn với phát triển kinh tế tri thức. "Đổi mới chính trị" theo tinh thần của Đảng ta là đổi mới tư duy chính trị về chủ nghĩa xã hội và con đường lên chủ nghĩa xã hội; đổi mới cơ cấu tổ chức và cơ chế vận hành của hệ thống chính trị, trước hết là đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng; đổi mới, nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà nước xã hội chủ nghĩa; thực hiện tốt nền dân chủ xã hội chủ nghĩa nhằm phát huy đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân. Nguyên tắc của đổi mới là “Đổi mới không phải là thay đổi mục tiêu xã hội chủ nghĩa mà là làm cho mục tiêu ấy được thực hiện có hiệu quả bằng những quan niệm đúng đắn về chủ nghĩa xã hội, những hình thức, bước đi và biện pháp thích hợp”[3].

Khái lược quá trình nhận thức và giải quyết đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở Việt Nam từ Đại hội VI (1986) đến Đại hội XI (2011) của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Đại hội VI (1986) xác định sự nghiệp đổi mới bắt đầu từ đổi mới kinh tế đến đổi mới chính trị và các lĩnh vực khác. Về mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị, Hội nghị lần 6 Ban Chấp hành Trung ương (Khoá VI) đã chỉ rõ: "Chúng ta tập trung sức làm tốt đổi mới kinh tế, đồng thời từng bước đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của các tổ chức chính trị. Không thể tiến hành cải cách hệ thống chính trị một cách vội vã khi chưa đủ căn cứ, mở rộng dân chủ không có giới hạn, không có mục tiêu cụ thể và không đi đôi với tập trung thì dẫn đến sự mất ổn định về chính trị, gây thiệt hại cho sự nghiệp đổi mới"[4]. Một nhận thức cực kỳ đúng đắn và thể hiện được bản lĩnh chính trị của Đảng ta thể hiện ở Nghị quyết hội nghị lần thứ 7, BCHTW (Khoá VI), tháng 8-1989: “Chúng ta không chấp nhận chủ nghĩa đa nguyên chính trị, không để cho các tổ chức chống đối chủ nghĩa xã hội ra đời và hoạt động, không coi việc thực hiện chính sách kinh tế nhiều thành phần là thực hiện chủ trương đa nguyên về kinh tế"[5].

Tiếp tục tinh thần Đại hội VI, Đại hội VII xác định: "phải tập trung sức làm tốt đổi mới kinh tế, đáp ứng những đòi hỏi cấp bách của nhân dân về đời sống, việc làm và các nhu cầu xã hội khác, xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, coi đó là điều kiện quan trọng để tiến hành thuận lợi đổi mới trong lĩnh vực chính trị. Đồng thời với đổi mới kinh tế, phải từng bước đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị, phát huy ngày càng tốt quyền làm chủ và năng lực sáng tạo của nhân dân trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội. Vì chính trị là lĩnh vực phức tạp và nhạy cảm nên việc đổi mới chính trị nhất thiết trên cơ sở nghiên cứu và chuẩn bị rất nghiêm túc, không cho phép gây mất ổn định chính trị, dẫn đến sự rối loạn”[6].

Đại hội VIII tiếp tục khẳng định "Kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đồng thời từng bước đổi mới chính trị”[7]. Đó là những quan điểm đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam phù hợp với thực tiễn đất nước cũng như nhu cầu, nguyện vọng của đại đa số nhân dân lao động. Những quan điểm này tiếp tục được khẳng định trong các kỳ đại hội IX, X. Đại hội XI của Đảng tiếp tục tinh thần các Đại hội trước và đã đưa ra quan điểm về đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị: “Đổi mới chính trị phải đồng bộ với đổi mới kinh tế theo lộ trình thích hợp, trọng tâm là hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, mở rộng dân chủ trong Đảng và trong xã hội gắn với tăng cường kỷ luật, kỷ cương..”[8]. Như vậy, về đổi mới kinh tế, Đại hội XI của Đảng tập trung vào đổi mới để hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa. Về đổi mới chính trị, Đại hội XI của Đảng tập trung ba lĩnh vực cơ bản, trọng yếu. Một là, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng. Hai là, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Ba là, mở rộng dân chủ trong Đảng và trong xã hội gắn với tăng cường kỷ luật, kỷ cương. Đây là ba lĩnh vực cơ bản, trọng yếu mang tính đột phá trong đổi mới chính trị mà Đại hội XI của Đảng xác định. Trong đó, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng là cấp thiết và hàng đầu.

Đại hội XII (2016) của Đảng Cộng sản Việt Nam về đổi mới đồng bộ thể chế kinh tế với thể chế chính trị

Tổng kết 30 năm đổi mới, nhất là tổng kết 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội XI về đổi mới kinh tế và chính trị, Đại hội XII của Đảng chỉ rõ, “Nhìn tổng thể, qua 30 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử[9], trong đó có thành tựu về giải quyết quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị. Tuy nhiên, Đại hội XII cũng thẳng thắn chỉ ra hạn chế: “Đổi mới chính trị chưa đồng bộ với đổi mới kinh tế, năng lực và hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị chưa ngang tầm nhiệm vụ”[10]. Tổ chức bộ máy và cơ chế hoạt động của các thiết chế trong bộ máy nhà nước còn những điểm chưa thực sự hợp lý, hiệu lực, hiệu quả. Chưa khắc phục được sự chồng chéo, vướng mắc về chức năng, nhiệm vụ giữa các thiết chế, làm ảnh hưởng tới sự thống nhất quyền lực nhà nước và hiệu quả hoạt động của nhà nước. Cải cách hành chính còn chậm, thiếu đồng bộ, chưa đáp ứng yêu cầu[11],.. Những hạn chế thực tiễn của cả đổi mới thể chế kinh tế của cả đổi mới thể chế chính trị đòi hỏi chúng ta phải đổi mới đồng bộ thể chế kinh tế và thể chế chính trị. Như vậy là đến Đại hội XII đã có bước phát triển về nhận thức và giải quyết mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị - đó là đổi mới đồng bộ thể chế kinh tế và thể chế chính trị.

Như chúng ta đã rõ, thể chế kinh tế là hệ thống những quy phạm pháp luật nhằm điều chỉnh các chủ thể kinh tế, các hoạt động kinh tế, các quan hệ kinh tế, bao gồm các yếu tố chủ yếu: các đạo luật, luật lệ, quy định, quy tắc,..về kinh tế gắn với các chế tài xử lý vi phạm; các tổ chức kinh tế; cơ chế vận hành  kinh tế,v.v..

Đồng bộ có nghĩa là có sự ăn khớp, nhịp nhàng giữa tất cả các bộ phận, các yếu tố, hoặc các khâu của sự vật, tạo nên một sự hoạt động nhịp nhàng của sự vật như một chỉnh thể. Như vậy, bản thân đổi mới thể chế kinh tế cũng như thể chế chính trị phải đồng bộ. Nghĩa là, cả đổi mới thể chế kinh tế và cả đổi mới thể chế chính trị cũng phải nhịp nhàng, ăn khớp với nhau thúc đẩy nhau cùng phát triển. Nói khác đi, sự đồng bộ trong đổi mới thể chế kinh tế và sự đồng bộ trong đổi mới thể chế chính trị làm điều kiện, tiền đề cho nhau, thúc đẩy nhau cùng phát triển nhịp nhàng, cân đối. Cả kinh tế, cả chính trị đều phát triển lành mạnh. Do đó, trong quá trình đổi mới không tuyệt đối hóa mặt nào, mà phải căn cứ vào tình hình cụ thể, điều kiện cụ thể mà có bước đi, lộ trình đổi mới phù hợp nhưng mục tiêu là đồng bộ, hiệu quả.

Tổng kết việc thực hiện nhiệm vụ trọng tâm trong đổi mới kinh tế mà Đại hội XI đề ra - hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Đại hội XII đánh giá về thành tựu: Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tiếp tục được hoàn thiện. Vai trò, hiệu quả, sức cạnh tranh của các chủ thể kinh tế được nâng lên, môi trường đầu tư, kinh doanh được cải thiện. Các yếu tố thị trường, các loại thị trường hình thành đồng bộ hơn. Vai trò của Nhà nước được điều chỉnh phù hợp hơn với cơ chế thị trường. Việc huy động và phân bổ các nguồn lực từng bước phù hợp hơn với cơ chế thị trường. Hội nhập kinh tế sâu rộng hơn, đa dạng về hình thức, từng bước thích ứng với thị trường toàn cầu[12],v.v.. Tuy nhiên, Đại hội cũng thẳng thắn chỉ ra những hạn chế: Hoàn thiện thể chế kinh tế còn chậm, thiếu kiên quyết. Triển khai thực hiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa còn hạn chế. Chưa tạo đột phá trong huy động, phân bổ, sử dụng các nguồn lực phát triển. Môi trường đầu tư kinh doanh chưa thật sự thông thoáng. Doanh nghiệp nhà nước chưa thể hiện được vai trò là lực lượng nòng cốt của kinh tế nhà nước[13],v.v.. Xét theo những tiêu chí về đồng bộ trong thể chế kinh tế ở trên cho thấy, thể chế kinh tế rõ ràng là chưa đồng bộ. Nguyên nhân của hạn chế này có cả nguyên nhân khách quan và chủ quan nhưng chủ yếu là nguyên nhân chủ quan.

Trên cơ sở đó, Đại hội XII đề ra bốn phương hướng hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trong đó có một số điểm mới chú ý:

Một là, tiếp tục thống nhất nhận thức về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: “Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nền kinh tế vận hành đầy đủ theo các quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế; có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh””[14].

Hai là, Đại hội XII nêu 5 đặc điểm quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN Việt Nam: (1) Có quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; (2) Có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế; (3) Các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật; (4) Thị trường đóng vai trò chủ yếu trong huy động và phân bổ có hiệu quả các nguồn lực phát triển, là động lực chủ yếu giải phóng sức sản xuất; (5) Các nguồn lực nhà nước được phân bổ theo chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phù hợp với cơ chế thị trường[15].

Ba là, Đại hội XII nêu khái quát 4 vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: (1) Định hướng, xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch và lành mạnh; (2) Sử dụng các công cụ, chính sách và các nguồn lực của Nhà nước để định hướng và điều tiết nền kinh tế, thúc đẩy sản xuất kinh doanh và bảo vệ môi trường; (3) Thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội trong từng bước vàc từng chính sách phát triển; (4) Phát huy vai trò của nhân dân trong phát triển kinh tế - xã hội[16].

Bốn là, từ ba điểm trên có thể rút ra năm điểm thể hiện bản chất định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường Việt Nam: (1) Có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam; (2) Do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; (3) Phát huy vai trò của nhân dân trong phát triển kinh tế - xã hội; (4) Có quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; (5) Thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội.

Những nhận thức mới này cần được cụ thể hóa, thể chế hóa phù hợp từng giai đoạn phát triển trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

Từ phương hướng trên, Đại hội XII đề ra 4 giải pháp hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: Một là, tiếp tục hoàn thiện thể chế về sở hữu, phát triển các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp. Hai là, phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường và các loại thị trường. Ba là, đẩy mạnh, nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế. Bốn là, nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước về kinh tế - xã hội và phát huy vai trò làm chủ của nhân dân trong phát triển kinh tế - xã hội.

Tổng kết việc thực hiện đổi mới chính trị theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XI, Đại hội XII chỉ rõ tổ chức bộ máy các cơ quan Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội được sắp xếp, kiện toàn theo yêu cầu nhiệm vụ mới. Chức năng, nhiệm vụ, mối quan hệ công tác của các tổ chức trong hệ thống chính trị được phân định, điều chỉnh phù hợp hơn[17]. Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị tiếp tục được đổi mới. Vai trò, tính chủ động tích cực, sang tạo và trách nhiệm của các tổ chức trong hệ thống chính trị nhất là vai trò của Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc được phát huy[18].

Quan điểm và thể chế về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa được bổ sung, hoàn thiện một bước quan trọng và cơ bản. Vai trò của pháp luật trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước, trong quản lý xã hội ngày càng được đề cao.  Quốc hội có nhiều đổi mới, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động. Hệ thống pháp luật tiếp tục được hoàn thiện. Chính phủ và các bộ tập trung hơn vào quản lý, điều hành vĩ mô. Cải cách hành chính tiếp tục được chú trọng và bước đầu đạt kết quả tích cực[19]. Quyền làm chủ của nhân dân trong các lĩnh vực của đời sống xã hội bằng dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện, nhất là trong lĩnh vực kinh tế và chính trị được phát huy tốt hơn,[20]v.v.. Tuy nhiên, Đại hội cũng thẳng thắn chỉ ra những hạn chế trong đổi mới thể chế chính trị: Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội còn chậm, nhất là việc cụ thể hóa phương thức lãnh đạo của Đảng đã được xác định trong Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011, có những nội dung còn lúng túng. Chưa chế định rõ, đồng bộ, hiệu quả cơ chế phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực nhà nước ở các cấp. Tổ chức bộ máy và cơ chế hoạt động của các thiết chế cơ bản trong bộ máy nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa như Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, hệ thống tư pháp còn những điểm chưa thật hợp lý, hiệu lực, hiệu quả. Chưa khắc phục được sự chồng chéo, vướng mắc về chức năng, nhiệm vụ giữa các thiết chế, làm ảnh hưởng tới sự thống nhất quyền lực nhà nước và hiệu quả hoạt động của Nhà nước. Hệ thống pháp luật thiếu đồng bộ, nhiều nội dung chưa đáp ứng nhu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền. Kỷ cương, kỷ luật trong quản lý nhà nước, thực thi công vụ còn nhiều yếu kém. Cải cách hành chính còn chậm, thiếu đồng bộ, chưa đáp ứng yêu cầu; thủ tục hành chính còn phức tạp, phiền hà, đang là rào cản lớn đối với việc tạo lập môi trường xã hội, môi trường kinh doanh lành mạnh, minh bạch, hiệu quả cho sự phát triển. Việc triển khai một số nhiệm vụ tư pháp còn chậm; vẫn còn tình trạng nhũng nhiễu, tiêu cực, oan, sai, bỏ lọt tội phạm. Công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí chưa đạt yêu cầu đề ra; tham nhũng, lãng phí vẫn còn nghiệm trọng[21]. Chậm đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân. Hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân các cấp có lúc, có nơi chưa sâu sát các tầng lớp nhân dân và cơ sở, còn có biểu hiện hành chính hóa, chưa thiết thực, hiệu quả. Hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách để thế hóa đường lối, chủ trương, quan điểm của Đảng về Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân còn thiếu và chưa đồng bộ[22]. Tình trạng tách rời, thậm chí đối lập giữa dân chủ và kỷ cương, pháp luật còn tồn tại ở nhiều nơi. Quyền làm chủ của nhân dân ở nhiều nơi, nhiều lĩnh vực còn bị vi phạm[23],v.v.. Xét theo tiêu chí đồng bộ của đổi mới hệ thống chính trị cho thấy thể chế chính trị chưa đồng bộ. Nguyên nhân của hạn chế này có cả nguyên nhân khách quan và chủ quan nhưng chủ yếu là nguyên nhân chủ quan.

Trên cơ sở đó, Đại hội XII đề ra giải pháp đổi mới thể chế chính trị: Đối với Nhà nước: Một là, tiếp tục hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức của Nhà nước theo quy định của Hiến pháp 2013, đáp ứng đòi hỏi của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Hai là, hoàn thiện tổ chức và nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước từ Quốc hội, Chính phủ đến chính quyền địa phương. Ba là, chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức[24].

Đối với xây dựng Đảng: (1) Chú trọng xây dựng Đảng về chính trị; (2) Đổi mới công tác tư tưởng, lý luận; (3) Tăng cường rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, thực dụng; (4) Tiếp tục đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy của Đảng và hệ thống chính trị; (5) Kiện toàn tổ chức, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các tổ chức cơ sở đảng và nâng cao chất lượng đảng viên; (6) Đổi mới mạnh mẽ công tác cán bộ, coi trọng công tác bảo vệ chính trị nội bộ; (7) Đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng; (8)  Tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác dân vận, tăng cường quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân; (9) Đẩy mạnh đấu tranh, phòng chống tham nhũng, lãng phí; (10) Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng.

Đối với phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa: (1) Thể chế hóa và nâng cao chất lượng các hình thức thực hiện dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện; (2) Thể chế hóa và thực hiện tốt phương châm “Dân biết, dân bàn, dân kiểm tra”; (3) Phát huy dân chủ trong Đảng là hạt nhân để phát huy dân chủ trong xã hội; (4) Đẩy mạnh dân chủ hóa xã hội để phát huy quyền làm chủ của nhân dân, vai trò chủ động, sáng tạo của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân. (5) Tổ chức thực hiện tốt Quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội. Quy định về việc Mặt trận tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền; (6) Phát huy dân chủ đi liền với tăng cường pháp chế, đề cao trách nhiệm công dân, giữ vững kỷ luật, kỷ cương và đề cao đạo đức xã hội.

Trên cơ sở những thành tựu này, xuất phát từ yêu cầu của bối cảnh mới, Đại hội XIII xác định cần đưa quan hệ giữa đổi mới đồng bộ thể chế kinh tế với thể chế chính trị lên một bước mới. Đó là: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy, xây dựng, hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển bền vững về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, môi trường…, tháo gỡ kịp thời những khó khăn, vướng mắc, khơi dậy mọi tiềm năng và nguồn lực, tạo động lực mới cho sự phát triển nhanh và bền vững đất nước”[25]. Đây là một điểm mới so với Đại hội XII và các đại hội trước đó, vì Đại hội XIII đã xác định xây dựng, hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển, trong đó có thể chế phát triển kinh tế và thể chế phát triển chính trị.

Kế thừa tinh thần các đại hội trước về đổi mới kinh tế, Đại hội XIII khẳng định “Tiếp tục phát triển nhanh và bền vững đất nước; gắn kết chặt chẽ và triển khai đồng bộ các nhiệm vụ, trong đó, phát triển kinh tế - xã hội là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt”[26]. Trên cơ sở này, Đại hội XIII định hướng “Hoàn thiện toàn diện, đồng bộ thể chế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tạo môi trường thuận lợi để huy động, phân bổ, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực thúc đẩy đầu tư, sản xuất kinh doanh. Bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, đổi mới mạnh mẽ mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; tập trung xây dựng kết cấu hạ tầng và phát triển đô thị; phát triển kinh tế nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới; ưu tiên nguồn lực phát triển hạ tầng nông thôn miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số; đẩy mạnh chuyển đổi số quốc gia; phát triển kinh tế số trên nền tảng khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo; gắn kết hài hòa, hiệu quả thị trường trong nước và quốc tế; nâng cao năng xuất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế”[27]. So với tinh thần Đại hội XII có những điểm mới: Một là, xác định nhiệm vụ trung tâm, quan trọng là hoàn thiện toàn diện, đồng bộ thể chế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Hai làđẩy mạnh chuyển đổi số quốc gia; phát triển kinh tế số trên nền tảng khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạoBa là, phát triển kinh tế nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới.

Về chính trị, Đại hội XIII yêu cầu và định hướng “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, phát huy bản chất giai cấp công nhân của Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, toàn diện, xây dựng Nhà nước tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; gắn với tinh giản biên chế, nâng cao chất lượng và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ, gắn bó mật thiết với nhân dân là nhân tố có ý nghĩa quyết định thành công sự nghiệp xây dựng, phát triển và bảo vệ tổ quốc”[28]. Đồng thời “phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và của nền văn hóa, con người Việt Nam”[29]. Như vậy là ở Đại hội XIII xây dựng Đảng gắn liền với xây dựng hệ thống chính trị. Đây cũng là điểm nhấn mạnh so với Đại hội XII.

Như vậy là trong thời kỳ đổi mới, Đảng ta rất chú trọng nhận thức và giải quyết quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị. Trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tổng kết thực tiễn đổi mới, rút kinh nghiệm cải tổ của Liên Xô, Đảng ta đã nhận thức và giải quyết tốt quan hệ này. Từ Đại hội VI (1986) đến Đại hội XI (2001) Đảng ta nhìn chung phát triển kinh tế là trọng tâm, đồng thời từng bước đổi mới chính trị. Đến Đại hội XII (2016) mối quan hệ này được Đảng ta nâng lên thành đổi mới đồng bộ thể chế kinh tế và thể chế chính trị, nghĩa là đồng bộ hơn, sâu sắc hơn. Đại hội XIII, trên cơ sở thành tựu của việc giải quyết quan hệ này cũng như xuất phát từ yêu cầu thực tiễn mới, mối quan hệ này được Đảng nâng lên thành quan hệ giữa đổi mới động bộ thể chế phát triển kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Điều này phản ánh đúng yêu cầu thực tiễn phát triển của đất nước cũng như quốc tế. 

GS.TS Trần Văn Phòng

Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh



[1] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự Thật, Hà Nội, 1986, tr.125.

[2] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Sđd, tr.71.

[4] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần sáu, Ban Chấp hành Trung ương, khoá VI.

[5] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy,  Ban Chấp hành Trung ương, khoá VI,  tr.17.

[6] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, NxbST, H.1991,tr.54.

[7] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, NxbCTQG,H.1996, tr.14.

[8] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, NxbCTQG,H.2011; tr.99-100.

[9] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng,H.2016; tr.65.

[10] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng,H.2016; tr.68.

[11] Xem:  Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng,H.2016; tr.173, 174.

[12] Xem: Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng,H.2016; tr.97-98.

[13] Xem: Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng,H.2016; tr.98-99.

[14] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng,H.2016; tr.102.

[15] Xem: Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng,H.2016; tr.102-103.

[16] Xem: Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng,H.2016; tr.103.

[17] Xem; Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu  toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương,H.2016, tr.187.

[18] Xem; Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu  toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương,H.2016, tr.190.

[19] Xem; Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu  toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương,H.2016, tr.171-172.

[20] Xem; Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu  toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương,H.2016, tr.167.

[21] Xem; Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu  toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương,H.2016, tr.173-174.

[22] Xem; Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu  toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương,H.2016, tr.157-158.

[23] Xem; Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu  toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương,H.2016, tr.168.

[24] Xem; Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu  toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương,H.2016, tr.177-181.

[25] Đảng Cộng sản Việt Nam: văn kiện ĐHĐB toàn quốc lần thứ XIII, NxbCTQG,ST,H.2021, tập 1, tr.114.

[26] Đảng Cộng sản Việt Nam: văn kiện ĐHĐB toàn quốc lần thứ XIII, NxbCTQG,ST,H.2021, tập 1, tr.110.

[27] Đảng Cộng sản Việt Nam: văn kiện ĐHĐB toàn quốc lần thứ XIII, NxbCTQG,ST,H.2021, tập 1, tr.114-115.

[28] Đảng Cộng sản Việt Nam: văn kiện ĐHĐB toàn quốc lần thứ XIII, NxbCTQG,ST,H.2021, tập 1, tr.111.

[29] Đảng Cộng sản Việt Nam: văn kiện ĐHĐB toàn quốc lần thứ XIII, NxbCTQG,ST,H.2021, tập 1, tr.110.

...