VNHN - Bài viết đề cập đến năng lực sáng tạo với hệ sinh thái khởi nghiệp từ chính phủ cho đến địa phương từ bài học của quốc gia Singapore và Phần Lan. Mô hình phát triển kinh doanh và sáng tạo hỗ trợ các công ty ngành Logistics tại Singapore được phân tích kỹ về hệ sinh thái khởi nghiệp và vai trò của cộng đồng doanh nghiệp theo định hướng chiến lược quốc gia Singapore xây dựng smart logistics mang tính toàn cầu nhằm khai thác một bộ công nghệ mới và phát triển để cho phép các chủ hàng và các nhà cung cấp dịch vụ logistics của bên thứ ba đạt được tầm nhìn rộng hơn trong chuỗi cung ứng của họ và chia sẻ tài nguyên để tạo ra các mạng logistics hiệu quả hơn gắn kết với mạng lước logistics quốc tế.
Với những sáng kiến và hỗ trợ từ các tổ chức chính phủ, kết hợp với vị trí địa lý chiến lược, cơ sở hạ tầng đẳng cấp thế giới và mạng lưới kết nối toàn cầu xuất sắc, cộng đồng doanh nghiệp ngành Logistics của Singapore đang phát triển không ngừng, trở thành chủ lực kinh tế của “Đảo quốc sư tử” này. Đây là một (01) bài học về việc tìm kiếm mô hình phù hợp nâng cao năng lực sáng tạo thông qua vai trò cộng đồng doanh nghiệp sáng tạo và khởi nghiệp tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Singapore hiện đại phát triển. Ảnh: internet
MỞ ĐẦU
Bản viết này nêu các giải pháp từ quan điểm phát triển kinh doanh để cải thiện năng lực sáng tạo và hệ sinh thái khởi nghiệp tại Thành phố Hồ Chí Minh (HCM). Ngoài ra, mục đích là để thảo luận về vai trò của cộng đồng doanh nghiệp trong bối cảnh hiện nay. Các ví dụ cụ thể là từ ngành logistics từ Singapore.
Trong những thập kỷ gần đây, đã có một nhận thức ngày càng tăng rằng các chính sách sáng tạo quốc gia phải được bổ sung với chính sách đổi mới địa phương và khu vực. Cũng đã có một sự chuyển đổi hoàn toàn từ phát triển đổi mới dựa trên cụm và phát triển kinh tế sang các mô hình có nhiều biến thể và thời gian khác nhau. Phát triển dựa trên cụm thường tốn thời gian và tốn kém, các thành phố sáng tạo với hệ sinh thái khởi nghiệp sôi động, cùng với các yếu tố quan trọng khác, đòi hỏi phải có các hoạt động đổi mới cởi mở và nhanh chóng.
Các khái niệm cụ thể để thiết lập các ưu tiên và xác định các phương pháp tiếp cận ở cấp địa phương để thúc đẩy sự sáng tạo và tăng trưởng kinh tế đang phát triển khi các thành phố và các vùng thích nghi tiến trình phát triển kinh tế và công cụ ứng phó với nhiều xu hướng như số hóa và quốc tế hóa. Một câu hỏi hiển nhiên là làm thế nào để trí tuệ nhân tạo, xã hội luôn thay đổi trên quy mô lớn được khai thác vì lợi ích chung. Tuy nhiên, việc quốc tế hóa và số hóa không chỉ là động lực cho chính sách sáng tạo và phát triển kinh tế. Chúng tạo ra các phương thức hoạt động hoàn toàn mới nhằm làm cho các thành phố và vùng của chúng ta trở nên sinh động và năng động hơn.
Ví dụ, ở mức độ số hóa lớn, qua các nền tảng sáng tạo mở, các thành phố có thể mở các giao diện vật lý và kỹ thuật của họ và bằng cách này mở đường cho các thử nghiệm và thí điểm. Minh họa cụ thể từ Singapore là sự chỉ dẫn và là dự án phát triển hệ sinh thái thành công từ đảo quốc sư tử. Đồng thời, chính quyền thành phố đã mở các tài nguyên dữ liệu liên quan cho các công ty để phát triển chỉ dẫn mới và các giải pháp nổi bật được kết nối với việc sử dụng sông và bờ biển của nó.
MÔ HÌNH PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC SÁNG TẠO VÀ HỆ SINH THÁI KHỞI NGHIỆP CỦA ĐỊA PHƯƠNG HỘI NHẬP QUỐC TẾ
Chính phủ Singapore và các tổ chức liên quan coi phát triển doanh nghiệp là ưu tiên hàng đầu trong chương trình hoạt động của họ, để từ đó xây dựng môi trường thuận lợi cho những người muốn khởi nghiệp và kinh doanh ở đây.
Xác định thiếu tiền là khó khăn chính đối với những người khởi nghiệp, Chính phủ Singapore đã triển khai nhiều sáng kiến để giúp họ tiếp cận vốn. Những sáng kiến này bao gồm cung cấp tiền mặt, tài trợ vốn, vườn ươm doanh nghiệp, cho vay nợ và ưu đãi thuế.
Các nhà nhà đầu tư có thể cho doanh nghiệp khởi nghiệp vay vốn để đổi lấy cổ phần trong công ty mới thành lập. Dạng cấp vốn này rất lý tưởng đối với những start-up cần thêm vốn, đặc biệt trong giai đoạn phát triển ban đầu. Ngoài những nguồn tư nhân cấp vốn cổ phần còn có những chương trình cấp vốn cổ phần cùng đầu tư do chính phủ Singapore triển khai nhằm tạo nên chất xúc tác cho nguồn vốn từ tư nhân rót cho doanh nghiệp mới thành lập. Nói cách khác, chính phủ cùng một nhà đầu tư bên thứ ba rót tiền cho start-up. Các chương trình rót vốn cổ phần được chính phủ hỗ trợ gồm những loại sau:
- Chương trình Spring Seeds (Những hạt giống mùa xuân): là chương trình đầu tư cổ phần mà trong đó Spring Seeds Capital (thuộc chính phủ Singapore) cùng nhà đầu tư bên thứ ba độc lập rót vốn cho các start-up thương mại có trụ sở tại Singapore, theo tỷ lệ 1-1, với mức tiền đầu tư tối đa 1 triệu đô la Singapore (S$). Lượt đầu tư đầu tiên thường giới hạn ở mức S$300.000. Spring Seeds Capital và nhà đầu tư bên thứ ba thường lấy cổ phần trong công ty với tỷ lệ tương ứng với mức tiền họ rót vào.
- Chương trình Những thiên thần kinh doanh (BAS): Spring Seeds Capital cùng các thiên thần kinh doanh (được phê duyệt) đầu tư vào các start-up định hướng tăng trưởng và sáng tạo, theo tỷ lệ 1-1, với mức tiền đầu tư tối đa S$1,5 triệu. Spring Seeds Capital và nhóm thiên thần kinh doanh sẽ nắm giữ số cổ phần theo tỷ lệ tương ứng với vốn đóng góp.
- Chương trình đầu tư mạo hiểm giai đoạn đầu (EVF): được Quỹ Nghiên cứu quốc gia (NRF) quản lý, trong đó các công ty tài chính mạo hiểm có thể huy động ít nhất S$10 triệu từ các nhà đầu tư bên thứ 3 và sẽ nhận được mức đầu tư tỷ lệ 1-1 từ NRF, với tổng mức tiền tối đa S$10 triệu để đầu tư vào các doanh nghiệp công nghệ đang ở giai đoạn đầu. Những doanh nghiệp công nghệ đáp ứng đủ tiêu chuẩn có thể tiếp cận trực tiếp những công ty tài chính mạo hiểm để kêu gọi mức tiền đầu tư lên đến S$3 triệu.
Phần được đề cập bên trên phản ánh vai trò thay đổi của khu vực công ở nhiều quốc gia, cũng như ở Phần Lan. Thành phố và các cơ quan chức năng khác ngày càng trở thành những nhà khởi tạo mạnh mẽ hơn thay vì là những người thực thi và hiện thực hóa duy nhất các chính sách phát triển kinh tế và kinh doanh. Cùng với những yếu tố khác, người ta phải chấp nhận rằng nhà cung cấp dịch vụ sáng tạo rất nhiều nhưng họ tạo thành các mạng lưới vô cùng phức tạp. Các mạng lưới này không dễ chi phối mà tổ chức thuộc địa phương hoặc khu vực có trách nhiệm phối hợp các dịch vụ phát triển kinh doanh và sáng tạo hoạt động như là một chất keo. Chỉ trong khu vực điển hình Turku, ngoài chính quyền địa phương và khu vực, chúng tôi có người sáng tạo tri thức, phòng thí nghiệm đang hoạt động, nhà đầu tư, vườn ươm, người thúc đẩy, trung tâm và không gian làm việc chung, khuôn viên sáng tạo, nền tảng đồng sáng tạo, sự kiện kết nối, cộng đồng, đối tác và các dịch vụ hỗ trợ...
Từ quan điểm xây dựng năng lực khi lập kế hoạch và điều hành các thành phố sáng tạo, điều quan trọng là phải nhận ra các mỗi liên kết giữa các thành phố và các trường đại học. Các trường đại học là động cơ của sự đổi mới. Để tăng trưởng, các thành phố và các trường đại học được liên kết với nhau theo nhiều cách và họ cũng cần phải giải quyết vấn đề với nhau. Và phải kể đến con người. Con người phải là trung tâm của việc quy hoạch khi tìm kiếm các giải pháp mới để cải thiện năng lực sáng tạo và hệ sinh thái khởi nghiệp. Trong một cuộc phỏng vấn gần đây, nhà kinh tế đô thị và giáo sư Harvard Edward Glaeser tại Đại học Harvard, chuyên gia hàng đầu về lĩnh vực chính sách phát triển đô thị, tác giả của cuốn sách bestseller “Chiến thắng của đô thị”. đã chia sẻ ý tưởng về những cơ hội và thách thức lớn nhất đối với các thành phố và những thành phố có thể làm để đảm bảo tăng trưởng kinh tế và truyền cảm hứng cho sự sáng tạo. Khi được hỏi "cách tốt nhất để phát triển thành phố là gì?’’, Câu trả lời của ông là "chiến lược phát triển kinh tế tốt nhất là thu hút và đào tạo những người thông minh và sau đó không được cản trở họ.
Hơn nữa, xây dựng năng lực sáng tạo và phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp thúc đẩy thành phố trở thành một thành phố quốc tế. Tuyên bố này tất nhiên có liên quan tới câu hỏi chính về tài năng. Ngày nay, các quan hệ đối tác quốc tế chiến lược nhằm hỗ trợ các hệ sinh thái sáng tạo địa phương là một điều cần thiết.
Trên thực tế, điều này có thể thực hiện được bằng cách hỗ trợ trao đổi quốc tế và các hình thức cộng tác khác giữa các cộng đồng khởi nghiệp một cách có hệ thống.
VAI TRÒ CỘNG ĐỒNG DOANH NGHIỆP TRONG NGÀNH LOGISTICS HỖ TRỢ NĂNG LỰC SÁNG TẠO VÀ PHÁT TRIỂN HỆ SINH THÁI KHỞI NGHIỆP TẠI SINGAPORE
Như đã hứa, các ví dụ cụ thể cho bài viết này đến từ các biện pháp phát triển kinh doanh và sáng tạo hỗ trợ các công ty ngành Logistics. Quốc gia Singapore là một hải cảng chiến lược, có thể cạnh tranh với các nước láng giềng để thực hiện các hoạt động buôn bán, xuất nhập khẩu. Thành phố hải cảng của Singapore là một trong những nơi bận rộn nhất trên thế giới, vượt xa HongKong và Thượng Hải. Thêm vào đó, thành phố hải cảng của Singapore có cơ sở hạ tầng tốt và lực lượng lao động có tay nghề cao nhờ các chính sách giáo dục của đất nước trong việc đào tạo kỹ nghề cho công nhân, nó cũng là nền tảng cho việc phát triển kinh tế của đất nước.. Gần một phần ba các công ty côngnghiệp logistics trên thế giới hiện nay đều có đại diện và chi nhánh tại quốc gia này (Agility, DHL, FedEx, TNT, UPS, Nippon Express, NYK Logistics và Toll Logistics…).
THIÊN THỜI
Cụm từ “thiên thời” ở đây nên được hiểu thoáng, tức là thời vận, cơ hội hay dịp may đến đúng lúc với điều kiện và hoàn cảnh thực tế. Ngay từ đầu, Singapore đã xác định và chọn đường lối phát triển để trở thành trung tâm kinh tế của Đông Nam Á và thế giới, dựa vào thế mạnh của cảng biển, của năng lực thương mại có sẵn. Chính phủ Singapore lập ra Ủy ban Kinh tế và Ủy ban Thương mại Quốc gia với nhiệm vụ là hoạch định và kiểm tra các hoạt động kinh tế trên đảo quốc. Đường lối mở cửa, thu hút vốn đầu tư và chất xám nước ngoài đến xây dựng Singapore đã trở thành quốc sách. Phát triển hệ thống cảng biển và trung tâm logistics, tự do hóa thương mại bằng các khu kinh tế tự do (FTZ) đã giúp Singapore cạnh tranh có hiệu quả với các cường quốc kinh tế thế giới trong giai đoạn chuyển tiếp những ngành kinh tế quan trọng từ châu Âu, châu Mỹ sang Đông Nam Á, đặc biệt là công nghiệp đóng và sửa chữa tàu thủy, lọc hóa dầu, đóng giàn khoan khai thác dầu khí trên biển, tin học…
Phát triển hệ thống cảng biển và trung tâm logistics, tự do hóa thương mại bằng các khu kinh tế tự do (FTZ) đã giúp Singapore cạnh tranh có hiệu quả với các cường quốc kinh tế thế giới trong giai đoạn chuyển tiếp những ngành kinh tế quan trọng từ châu Âu, châu Mỹ sang Đông Nam Á, đặc biệt là công nghiệp đóng và sửa chữa tàu thủy, lọc hóa dầu, đóng giàn khoan khai thác dầu khí trên biển, tin học…
ĐỊA LỢI
Địa lợi, ngày nay là một tiêu chí cần thiết khi ta chọn nơi để xây dựng cảng biển hay trung tâm logistics, phải là nơi đầu mối giao thông hoặc trung tâm khu vực, ở gần các thành phố lớn, gần khu công nghiệp, gần vùng nguyên liệu…. Cảng Singapore (PSA _ Portof Singapore Authority) được sự ưu ái và quan tâm đặc biệt của Chính phủ Singapore trong việc thực hiện phát triển container, logistics và tự do hóa thương mại, cũng như điều hành các hoạt động hàng hải của đảo quốc này. Phát huy thế mạnh về vị trí là nằm ngay “xích đạo”, không bị giông bão hay thời tiết xấu đe dọa. Bến cảng và sân bay hầu như hoạt động suốt năm, thuận lợi cho xếp dỡ hàng hóa, PSA triển khai xây dựng, phát triển cảng biển với kết cấu hạ tầng hiện đại, hoàn hảo, sẵn sàng tiếp thu tàu biển năm châu về hội tụ.
NHÂN HÒA
Nhân hòa là khâu cuối cùng trong quốc sách của Singapore được quán triệt đầy đủ và nghiêm khắc trong quá trình phát triển. Nhân hòa ở đây là việc ban hành chính sách và cơ chế phù hợp từng giai đoạn tăng trưởng kinh tế. Từ cảng biển (seaport), trung tâm Logistics (logistics center), trung tâm thương mại tự do (FTZ) đến các trung tâm phân phối hàng hóa (Distripart) khu vực, Singapore đã nâng lên cấp toàn cầu do đã cập nhật và thay đổi theo xu thế phát triển của thế giới. Thành công của những chủ trương điện tử hóa đất nước (computerised country), container hóa cảng biển (containerised seaport) và logistics toàn cầu là tiền đề quan trọng để đưa ngành logistics của Singapore trở thành một ngành công nghiệp dịch vụ logistics, có mức đóng góp 8% GDP/năm.
Singapore cũng được công nhận là cảng có hệ thống hải quan làm việc đạt hiệu quả cao, thủ tục xuất - nhập khẩu thân thiện với doanh nghiệp. Hệ thống một cửa điện tử quốc gia Tradenet cho phép đơn giản hóa tất cả các thủ tục giấy tờ, tiết kiệm thời gian, chi phí và nâng cao hiệu quả kiểm tra hàng hóa.
Với đội ngũ nhà cung cấp dịch vụ logistics hùng hậu và mạng lưới kết nối phủ khắp toàn cầu, Singapore trở thành trung tâm cung cấp và quản lý chuỗi logistics yêu thích của vô số thương hiệu hàng đầu các ngành công nghiệp hàng không vũ trụ, khoa học y sinh, điện tử viễn thông như: Avaya, Diageo, Dell, Hewlett Packard, Infineon, LVMH, Novartis, ON Semiconductor, Panasonic và Siemens Medical Instruments…
TOÀN CẦU HÓA LOGISTICS
Chẳng ai nghĩ rằng Singapore, đảo quốc nhỏ ở Đông Nam Á, dân số ít, trình độ dân trí và năng lực khoa học công nghệ trung bình mà chỉ trong vòng 51 năm (1962-2013) đã phát triển thành một nước công nghiệp – hàng hải, thu nhập cao, chiếm nhiều trung tâm ở châu Á và thế giới, hiện đang hướng đến quốc gia hiện đại, công nghệ cao với nền kinh tế tri thức vào cuối thập kỉ 21.
Singapore đang phát triển theo hướng toàn cầu hóa logistics là bước đi ban đầu cần thiết để đưa nền kinh tế hội nhập thế giới. Thương mại tự do, thu hút vốn đầu tư và công nghệ cao, biến mình thành nơi sản xuất cũng như phân phối sản phẩm chất lượng hàng đầu quốc tế. Tiếp tục dùng “ngoại lực” hỗ trợ có hiệu quả cho “nội lực” để phát triển kinh tế một cách bền vững, đó là những tiêu chí quan trọng mà mỗi quốc gia nhỏ hay trung bình cần tham khảo.
Các biện pháp phát triển kinh doanh và sáng tạo để hỗ trợ các công ty ngành Logistics là một phần trong kế hoạch Smart Nation của Singapore, sáng kiến Smart logistics đã vạch ra con đường cho sự phát triển của ngành logistics tiên tiến ở Singapore. Kế hoạch này nhằm khai thác một bộ công nghệ mới và phát triển để cho phép các chủ hàng và các nhà cung cấp dịch vụ logistics của bên thứ ba đạt được tầm nhìn rộng hơn trong chuỗi cung ứng của họ và chia sẻ tài nguyên để tạo ra các mạng logistics hiệu quả hơn.
Cùng với việc cải thiện kết quả kinh doanh của khách hàng, công nghệ Smart logistics có thể giảm đáng kể chi phí cho các nhà cung cấp dịch vụ logistics tại Singapore, với mức tiết kiệm hàng năm dự kiến cho ngành logistics của Singapore.
Sáng kiến Smart logistics tìm cách tận dụng các công nghệ mới trong kho vận hàng hóa toàn cầu để thúc đẩy các chuỗi cung ứng hiệu quả từ đầu đến cuối nhằm phục vụ nhu cầu tiêu dùng ngày càng tăng trong nhiều năm tới.
Bước đầu tiên sẽ là giải quyết những hạn chế trong các mạng lưới phân phối hiện có thông qua việc sử dụng phân tích dữ liệu để tăng cường sự hợp tác giữa các công ty vận chuyển hàng hóa. Trao đổi dữ liệu mới sẽ chia sẻ thông tin về các tuyến giao hàng, loại hàng hóa và lịch giao hàng giữa các công ty, cơ quan chính phủ và nhà cung cấp dịch vụ logistics, với mục tiêu tối ưu hóa quy trình phân phối.
Ví dụ, các công ty có thể chọn sử dụng mạng trao đổi dữ liệu để điều phối lịch giao hàng của họ đến các múi giờ đã chọn và chia sẻ các phương tiện giao hàng, tài xế và kho để cắt giảm chi phí và tăng hiệu quả.
Một vấn đề khác cần giải quyết là khả năng theo dõi thời gian thực để giám sát hàng hóa nhạy cảm trong quá trình vận chuyển, dẫn đến mất hàng tồn kho và sự chậm trễ thực hiện. Sáng kiến Smart logistics nhằm mục đích giải quyết vấn đề này bằng cách thiết lập các mạng cảm giác ở các sân bay và cảng biển sẽ sử dụng cảm biến nhận dạng tần số vô tuyến (RFID - Radio Frequency Identification) để theo dõi tình trạng hàng hóa trong thời gian thực.
Điều này sẽ cung cấp cho chủ hàng và các nhà cung cấp dịch vụ logistics tăng cường sức mạnh theo dõi và truy tìm trên toàn bộ chuỗi cung ứng và cho phép họ theo dõi các điều kiện môi trường cho hàng hóa nhạy cảm trong quá trình vận chuyển.
Các công nghệ logistics thông minh sẽ có thể xác định các vấn đề chuỗi cung ứng và can thiệp trong thời gian thực gần để giải quyết sự chậm trễ thực hiện, ngăn chặn mất hàng tồn kho thông qua thiệt hại trong quá trình vận chuyển và loại bỏ nhu cầu giữ hàng tồn kho dư thừa trong chuỗi cung ứng. Các lô hàng được giám sát cũng được dự kiến sẽ giảm chi phí bảo hiểm cho các công ty do rủi ro vận chuyển hàng hóa thấp hơn.
Loại bỏ lỗi của con người và giảm bớt sự tiêu hao nguồn nhân lực trong nhà kho là một lĩnh vực khác mà sáng kiến Smart logistics đang xem xét.
Internet of Things (IoT) cũng sẽ đóng một vai trò trung tâm như thiết bị kho kết nối internet như pallet và xe nâng hàng giảm gánh nặng cho các bộ xử lý mặt đất để theo vị trí, điều kiện và trạng thái của hàng hóa nhập và xuất logistics thông minh trong thực tế.
Trong khi các mạng cảm biến được trang bị RFID và trao đổi dữ liệu vẫn là các khái niệm đang được phát triển như là một phần của sáng kiến Smart Logistics trên toàn quốc, các công ty quản lý chuỗi cung ứng lớn đang khai thác tiềm năng hậu cần thông minh.
Một ví dụ là Mobility Suite của CEVA Logistics – một ứng dụng điện thoại thông minh đa nền tảng đi kèm với các tính năng như các mốc thời gian thực, chữ ký điện tử, hiệu suất phân phối, tính khả dụng của trình điều khiển, trạng thái chuyến đi, khả năng hiển thị vị trí hiện tại, công văn động, bảng điều khiển di động và báo cáo, danh sách kiểm tra điện tử, biên nhận giao hàng và quản lý luồng công việc cũng như phát hiện và loại bỏ hàng hóa bị hỏng.
Đồng thời, Singapore đã phát triển thành một trung tâm cho sự phát triển toàn cầu về các tàu tự hành thông minh. Tương lai cũng đang được xây dựng tại Khu Công nghiệp hướng tới việc trở thành trung tâm sản xuất và sáng tạo hàng đầu về chuyên môn hàng hải ở Đông Nam Á và Châu Á.
Các biện pháp phát triển kinh doanh và sáng tạo hỗ trợ các công ty ngành Logistics là một phần trong kế hoạch Smart Nation của Singapore, sáng kiến Smart logistics đã vạch ra con đường cho sự phát triển của ngành logistics tiên tiến ở Singapore. Kế hoạch này nhằm khai thác một bộ công nghệ mới và phát triển để cho phép các chủ hàng và các nhà cung cấp dịch vụ logistics của bên thứ ba đạt được tầm nhìn rộng hơn trong chuỗi cung ứng của họ và chia sẻ tài nguyên để tạo ra các mạng logistics hiệu quả hơn.
Lộ trình phát triển logistics chú trọng vào việc tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho logistics như: Ưu đãi thuế cho các công ty tàu biển quốc tế; hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực cho ngành Logistics và phát triển kinh doanh cho các công ty logistics Singapore thông qua Quỹ Hàng hải; khuyến khích các công ty trong nước liên doanh với các công ty nước ngoài để tăng cường kết nối toàn cầu; kêu gọi các công ty đa quốc gia, các hãng dịch vụ logistics quốc tế đặt trụ sở tại nước mình; tăng cường đầu tư, xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng logistics quy mô lớn, hiện đại…
Trong đó, Chính phủ Singapore đặc biệt quan tâm đến công tác đào tạo nhân lực cho ngành Logistics, mục đích là để vừa tạo ra được nguồn lao động phục vụ trong nước, vừa mời thêm được các chuyên gia từ nước ngoài về giảng dạy và phát triển hệ thống logistics nước nhà.
Bên cạnh đó, năm 2011, Singapore khai trương Trung tâm Đổi mới Quản lý chuỗi cung ứng (COI-SCM). Về cơ bản, COI-SCM có vai trò trung tâm một cửa hỗ trợ các doanh nghiệp logistics Singapore nâng cao năng suất, cải thiện hiệu quả kinh doanh thông qua việc đổi mới công nghệ, đổi mới quản lý. COI-SCM đưa ra các giải pháp đổi mới trong mọi khâu hoạt động của doanh nghiệp, từ quản lý tài sản tồn kho, tối ưu hóa vận chuyển, quản lý nguồn lực doanh nghiệp, cải tiến quy trình, điều khiển và tự động hóa cho đến thiết kế và quản lý kho hàng. Ngoài ra, COI-SCM còn hỗ trợ xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao cho các doanh nghiệp bằng cách cung cấp các khóa đào tạo kiến thức và kỹ năng chuyên môn. Những giải pháp này sẽ giúp các doanh nghiệp logistics Singapore nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh và phân phối sản phẩm, dịch vụ tới khách hàng.
Với những sáng kiến và hỗ trợ từ các tổ chức chính phủ, kết hợp với vị trí địa lý chiến lược, cơ sở hạ tầng đẳng cấp thế giới và mạng lưới kết nối toàn cầu xuất sắc, ngành Logistics của Singapore đang phát triển không ngừng, trở thành chủ lực kinh tế của “Đảo quốc sư tử” này.
Trong trường hợp trên, vai trò của các công ty lớn là rất cần thiết. Nếu không có họ thì các sáng kiến sẽ nông cạn. Mặt khác, sự hợp tác và đồng sáng tạo với các công ty khởi nghiệp, sinh viên đại học và các nhà nghiên cứu có thể mở ra những con đường cho các dòng phát triển sản phẩm mới hoặc thậm chí các mô hình kinh
doanh có đóng góp có lợi về chi phí.
Mặc dù Singapore là nơi có một trong những hệ sinh thái kỹ thuật số hàng đầu thế giới về ngành hàng hải nhưng sự cạnh tranh toàn cầu rất khốc liệt và đòi hỏi đòn bẩy không chỉ từ khu vực công mà còn từ chính các công ty. Thật thú vị khi chứng kiến cách các công ty lớn quý trọng những người mới và cộng tác với các đối thủ cạnh tranh khi phương thức tiếp cận cấp hệ thống là con đường phía trước. Để cho con người và các công ty hợp tác với nhau là giải pháp tốt nhất để cải thiện năng lực sáng tạo và hệ sinh thái khởi nghiệp.
Sự thúc đẩy hàng hải và Không gian cung cấp kỹ thuật số hàng hải hỗ trợ tăng trưởng và chuyển đổi ngành hàng hải. Những sáng kiến này được điều hành bởi Smart logistics. Chương trình thúc đẩy hàng hải gần đây đã tập hợp các tổng công ty lớn trong ngành hàng hải và các công ty khởi nghiệp từ các lĩnh vực khác để
tạo ra các mô hình kinh doanh và liên doanh mới. Trong Chương trình thúc đẩy hàng hải, các liên minh chưa được khuyến khích được khuyến khích. Liên quan đến các hệ sinh thái sáng tạo và khởi nghiệp nói chung, các liên minh chưa được khuyến khích có nghĩa là sự kết hợp chéo giữa hai thực thể dường như không có điểm gì chung. Trong thời gian đầu của chương trình, hơn 500 công ty khởi nghiệp từ khắp nơi trên thế giới đã được sàng lọc và 40 công ty hứa hẹn nhất được giới thiệu cho các tổng công ty đối tác. Cuối cùng, 10 công ty khởi nghiệp đã được mời tham gia chương trình đào tạo.
Các công ty khởi nghiệp (Start-up), các trường đại học và sinh viên cần được xem là tài sản, những sáng kiến của họ được các công ty lớn hiện thực hóa, mở ra con đường phát triển các sản phẩm mới hoặc thậm chí các mô hình kinh doanh đóng góp có lợi.
Tại Thành phố Hồ Chí Minh, các điểm yếu của (Start-up) hiện nay như thiếu thông tin, tư duy ứng dụng công nghệ vào thị trường còn hạn chế và thiếu chú tâm tìm hiểu nguồn lực hỗ trợ. Thực tế việc hỗ trợ khởi nghiệp vẫn còn mang tính hình thức, thiếu kết nối giữa các nguồn lực và thiếu chương trình tổng thể giữa các nhân tố trong hệ sinh thái khởi nghiệp, như các cơ quan quản lý nhà nước, doanh nghiệp hay cộng đồng khởi nghiệp nói chung.
Ông Nguyễn Việt Đức - Tổng giám đốc Công ty Quản lý đầu tư khởi nghiệp sáng tạo Việt Nam - khuyến cáo, nhiều startup còn quá chú trọng vào sự đam mê ý tưởng mà chưa phân tích khách hàng là ai, mức độ quan tâm thế nào, có bán được sản phẩm hay không. Trong 10 yếu tố để trở thành startup thành công, đa số các nhà khởi nghiệp mới chỉ có một, họ còn thiếu kỹ năng tiếp thị bán hàng, tìm kiếm nhà đầu tư, nhà cố vấn để hoàn thiện ý tưởng, chưa biết cách tìm kiếm các doanh nghiệp dẫn đầu để học hỏi.
Theo ông Hoàng Minh Trí - Giám đốc AiPac, việc Chính phủ thúc đẩy và khuyến khích khởi nghiệp theo xu thế công nghiệp 4.0 chính là cơ hội cho các startup. Dữ liệu cho thấy 75% nhà khởi nghiệp thất bại nhưng khối doanh nghiệp có kinh nghiệm khởi nghiệp thì tỷ lệ thành công lên đến 75%.
Ông Trí lưu ý các công ty khởi nghiệp không phải là phiên bản nhỏ của các công ty lớn nhưng đây là sự nhầm lẫn của một số doanh nhân. Công ty khởi nghiệp không phải thực hiện theo đúng kế hoạch tổng thể và mô hình kinh doanh sẵn có của một công ty lớn mà là tìm mô hình kinh doanh phù hợp.
KẾT LUẬN :
Vai trò cộng đồng doanh nghiệp lớn là rất cần thiết. Nếu không có họ thì các sáng kiến, năng lực sáng tạo của các startup sẽ thất bại trong môi trường luôn thay đổi hiện nay vì các điểm yếu của Startup hiện nay là thiếu thông tin, tư duy ứng dụng công nghệ vào thị trường còn hạn chế và thiếu chú tâm tìm hiểu nguồn lực hỗ trợ. Mặt khác, sự hợp tác và đồng sáng tạo với các công ty khởi nghiệp, sinh viên đại học và các nhà nghiên cứu có thể mở ra những con đường cho các dòng phát triển sản phẩm mới hoặc thậm chí các mô hình kinh doanh mới có đóng góp có lợi về chi phí và đạt lợi thế cạnh tranh trên thương trường cho cộng đồng doanh nghiệp thông qua bài học từ ngành logistics của Singapore.
ThS. Trần Thị Lan Chi và ThS. Văn Thị Thiên Hà - Trường Đại học Quốc tế Sài Gòn
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Eric Ries (2012). Khởi nghiệp tinh gọn. Dương Hiếu, Kim Phượng & Hiếu Trung dịch, NXB Thời Đại.
- Donald F. Kuratko (2016) Entrepreneurship: Theory, Process, and Practice, Cengage Learning.
- Michael H. Morris, Hà My dịch (2010), Khởi nghiệp thành công : Thành lập và phát triển công ty riêng của bạn, NXB Đại học Kinh tế quốc dân.
- Caspian Woods (2011). 10 Lời khuyên khởi nghiệp, NXB Lao động Xã hội
- Tạp chí khởi nghiệp http://startup-plus.net/