Thời gian tới, trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, với mục tiêu đến năm 2030, là nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao và đến năm 2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao, doanh nghiệp nhà nước cần thể hiện vị trí, vai trò nòng cốt, dẫn dắt, mở đường trong nền kinh tế; là lực lượng tiên phong, dẫn đầu trong đổi mới sáng tạo, đổi mới mô hình quản trị, cơ cấu lại nguồn vốn, cơ cấu lại các chuỗi sản xuất, cung ứng…

Ảnh minh họa - VNHN
Vai trò của doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Ở Việt Nam, doanh nghiệp nhà nước có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng, đã được khẳng định cả về lý luận và thực tiễn. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) tiếp tục khẳng định vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước và kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Thành phần kinh tế nhà nước bao gồm các yếu tố thuộc sở hữu nhà nước và các yếu tố thuộc sở hữu toàn dân mà Nhà nước được giao quyền đại diện chủ sở hữu, chia thành 3 nhóm cơ bản: Nhóm các yếu tố thuộc sở hữu toàn dân, như đất đai và tài nguyên gắn với đất đai, vùng biển,...; nhóm các yếu tố vật chất mà Nhà nước sử dụng vốn ngân sách, kể cả các nguồn vốn mà Nhà nước huy động; nhóm các doanh nghiệp nhà nước được hình thành trên cơ sở đầu tư của Nhà nước, kể cả đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước. Nhóm này là biểu hiện cụ thể của việc Nhà nước thực hiện hoạt động kinh tế. Như vậy, trong thành phần kinh tế nhà nước, doanh nghiệp nhà nước giữ vị trí quan trọng. Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh: “Kinh tế nhà nước là công cụ, lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước ổn định kinh tế vĩ mô, định hướng, điều tiết, dẫn dắt thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội, khắc phục các khuyết tật của cơ chế thị trường. Doanh nghiệp nhà nước tập trung vào lĩnh vực then chốt, địa bàn quan trọng, quốc phòng, an ninh; hoạt động theo cơ chế thị trường, quản trị hiện đại theo chuẩn mực quốc tế; lấy hiệu quả kinh tế làm tiêu chí đánh giá chủ yếu, cạnh tranh bình đẳng với doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế”(1).
Doanh nghiệp nhà nước vừa là chủ thể kinh doanh, vừa là lực lượng kinh tế nòng cốt của Nhà nước, tham gia các hoạt động kinh tế. Là chủ thể kinh doanh, các doanh nghiệp nhà nước phải thực hiện hạch toán kinh tế, tự chủ về tài chính, hoạt động có hiệu quả để bảo đảm quá trình tái sản xuất mở rộng, bảo đảm gia tăng nguồn lực kinh tế mà Nhà nước đã đầu tư cho các doanh nghiệp này. Là lực lượng tham gia các hoạt động kinh tế như một công cụ của Nhà nước, các doanh nghiệp nhà nước phải góp phần tạo ra sự ổn định kinh tế - xã hội, giúp Nhà nước đạt được các mục tiêu kinh tế, chính trị, xã hội.
Về mặt kinh tế: Doanh nghiệp nhà nước giúp khắc phục những khuyết tật của cơ chế thị trường và khu vực tư nhân; đảm nhận các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh có tính chiến lược đối với sự phát triển kinh tế - xã hội, đòi hỏi vốn đầu tư lớn vượt quá khả năng của tư nhân; tham gia những lĩnh vực khoa học - công nghệ mũi nhọn, có hệ số rủi ro cao; tham gia một số ngành có lợi thế cạnh tranh.
Về mặt chính trị: Vai trò của doanh nghiệp nhà nước thể hiện ở việc nắm giữ những ngành đặc biệt quan trọng liên quan đến quốc phòng, an ninh quốc gia (sản xuất, sửa chữa vũ khí, trang bị chuyên dùng cho quốc phòng, an ninh,...; đồng thời, doanh nghiệp nhà nước tham gia chiếm giữ một số vị trí thiết yếu, quan trọng để chủ động trong phát triển, hội nhập kinh tế quốc tế (bán buôn lương thực, xăng dầu; sản xuất điện; khai thác khoáng sản quan trọng; một số sản phẩm cơ khí, điện tử, công nghệ thông tin quan trọng; bảo trì đường sắt, sân bay,...).
Về mặt xã hội: Vai trò này thể hiện ở chỗ các doanh nghiệp nhà nước đảm nhận những ngành ở những địa bàn khó khăn, có ý nghĩa chính trị - xã hội mà tư nhân không muốn đầu tư, bảo đảm cân bằng về đầu tư phát triển theo vùng, miền, đảm nhận các ngành sản xuất hàng hóa công cộng thiết yếu.
Thực trạng và một số vấn đề đặt ra đối với khu vực doanh nghiệp nhà nước
Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, đến hết năm 2023, Việt Nam có 676 doanh nghiệp nhà nước, trong đó gồm 478 doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ và 198 doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ cổ phần chi phối. Doanh nghiệp nhà nước hiện diện ở nhiều ngành, lĩnh vực có vai trò, vị trí quan trọng của nền kinh tế. Trong 478 doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ (gồm 143 doanh nghiệp do các cơ quan trung ương quản lý; 335 doanh nghiệp địa phương) có 6 tập đoàn kinh tế, 53 tổng công ty nhà nước; 18 công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên hoạt động theo mô hình công ty mẹ - công ty con và 401 công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên độc lập(2).
Trong số 198 doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ cổ phần chi phối (gồm 35 doanh nghiệp trung ương, 126 doanh nghiệp địa phương) có 3 tập đoàn kinh tế, 17 tổng công ty nhà nước; 6 công ty hoạt động theo mô hình công ty mẹ - công ty con và 172 công ty độc lập. Doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều lệ chủ yếu hoạt động trong các ngành nông, lâm nghiệp, kết cấu hạ tầng cảng biển, giao thông và sản xuất, kinh doanh (bất động sản, du lịch, vật liệu xây dựng…)(3).
Vốn chủ sở hữu của các doanh nghiệp nhà nước hơn 1,8 triệu tỷ đồng, trong đó giá trị vốn nhà nước đầu tư khoảng 1,7 triệu tỷ đồng. Doanh nghiệp nhà nước vẫn là đầu tàu, tạo động lực cho các thành phần kinh tế khác phát triển. Trong một số lĩnh vực, doanh nghiệp nhà nước có vai trò chủ chốt, như năng lượng, lương thực, viễn thông, xăng dầu, tài chính. Các doanh nghiệp cũng tích cực cơ cấu lại, nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh.
Doanh nghiệp nhà nước nắm giữ nguồn lực lớn về vốn, tài sản, công nghệ, nhân lực chất lượng cao, đóng góp đáng kể cho ngân sách nhà nước, tạo việc làm cho người lao động, tham gia tích cực công tác an sinh xã hội, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát và bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế. Bên cạnh đó, doanh nghiệp nhà nước có vai trò lớn trong sản xuất, cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích. Nhiều tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước trực tiếp tham gia phục vụ quốc phòng - an ninh, thực hiện các chính sách an sinh xã hội, kết hợp phát triển kinh tế với bảo đảm quốc phòng - an ninh và bảo vệ chủ quyền quốc gia. Doanh nghiệp nhà nước cũng đóng vai trò quan trọng trong xây dựng và phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng thiết yếu cho phát triển kinh tế - xã hội, trước hết là kết cấu hạ tầng giao thông, nông nghiệp, nông thôn, năng lượng, viễn thông.
Mặc dù còn phải đối mặt với nhiều khó khăn, nhưng kết quả kinh doanh và đóng góp của doanh nghiệp nhà nước vào phát triển kinh tế - xã hội đáng ghi nhận. Như trong năm 2023, tổng doanh thu khoảng 1,65 triệu tỷ đồng, vượt 4% so với kế hoạch, lợi nhuận trước thuế khoảng 125,8 nghìn tỷ đồng, vượt 8% kế hoạch năm, đóng góp ngân sách nhà nước ước khoảng 166 nghìn tỷ đồng, vượt 8% kế hoạch năm; đóng góp khoảng 28% thu ngân sách nhà nước, giải quyết việc làm cho khoảng 0,7 triệu lao động… Các chỉ số tài chính và kết quả hoạt động kinh doanh cho thấy có sự tăng trưởng, phản ánh hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước ngày càng tăng lên(4).
Tuy nhiên, thực tế những năm qua, khu vực doanh nghiệp nhà nước cũng bộc lộ rất nhiều bất cập:
Một là, về quy mô tổng thể. Tỷ trọng của khu vực doanh nghiệp nhà nước là quá cao so với các nước, kể cả các nước có tính định hướng xã hội cao như các nước Bắc Âu. Tính đến cuối năm 2023, vẫn còn 676 doanh nghiệp nhà nước. Đây là con số lớn so với số lượng doanh nghiệp nhà nước từ 10 tới 120 tại các quốc gia thành viên Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD), 240 doanh nghiệp nhà nước tại Ấn Độ.
Hai là, cơ cấu bất hợp lý. Hiện nay, cơ cấu khu vực doanh nghiệp nhà nước còn bất hợp lý về ngành, vùng, quy mô và mặc dù đã có rất nhiều biện pháp nhưng vẫn chưa được chuyển dịch phù hợp. Tình trạng manh mún, chồng chéo, trùng lặp, các doanh nghiệp nhà nước trên cùng một địa bàn mang tính phổ biến dẫn đến đầu tư của Nhà nước bị dàn trải, cạnh tranh không lành mạnh giữa các doanh nghiệp nhà nước, thậm chí giữa các đơn vị của cùng một tổng công ty, gây lãng phí nguồn lực.
Ba là, hiệu quả hoạt động thấp. Theo báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, kết quả kinh doanh năm 2023 có tới 134 doanh nghiệp còn lỗ lũy kế, tổng cộng 115.270 tỷ đồng, tương đương 4,6 tỷ USD. Mức lỗ lũy kế này gấp 1,7 lần so với ghi nhận cuối năm 2022 (gần 69.900 tỷ đồng). Trong đó, 72 doanh nghiệp lỗ phát sinh hơn 33.700 tỷ đồng. Ví dụ, Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) tiếp tục lỗ 26.700 tỷ đồng năm 2023, tăng 29% so với khoản lỗ một năm trước đó. Số này cao hơn mức ước tính của Bộ Công Thương trước đó (17.000 tỷ đồng). Nguyên nhân chủ yếu do tập đoàn này phải huy động các nguồn phát giá cao, chi phí sản xuất tăng, trong khi giá bán lẻ điện chưa đủ bù đắp.
Các thống kê cho thấy, chỉ số hiệu quả sử dụng vốn đầu tư (ICOR) ở khu vực doanh nghiệp nhà nước khoảng 8 - 14 so với khoảng 3 - 5 ở khu vực tư nhân. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, tăng trưởng GDP bình quân giai đoạn 2011 - 2020 của cả nước đạt 6,35%/năm, trong đó tăng trưởng khu vực kinh tế nhà nước chỉ đạt 4,45%, trong khi kinh tế ngoài nhà nước là 6,63%, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là 9,44%(5). Như vậy, xét trên khía cạnh tài chính - kinh tế thuần túy, có đủ cơ sở để kết luận về tình trạng kém hiệu quả của doanh nghiệp nhà nước. Tình trạng này nếu để tiếp tục kéo dài có nguy cơ đe doạ tính an toàn của toàn bộ hệ thống tài chính và nền kinh tế, bởi các doanh nghiệp nhà nước là các khách hàng vay chủ yếu của các ngân hàng.
Bốn là, trình độ kỹ thuật, công nghệ lạc hậu. Đến nay, nhiều doanh nghiệp nhà nước được trang bị máy móc, trang thiết bị từ nhiều nguồn khác nhau, có những thiết bị lạc hậu, tốn năng lượng và gây ô nhiễm. Đầu tư cho công nghệ cao, hiện đại chưa được quan tâm thích đáng. Như vậy, doanh nghiệp nhà nước khó có thể thực hiện được vai trò đi đầu về năng suất, chất lượng, làm đầu tàu về khoa học - công nghệ trong điều kiện cạnh tranh hiện nay và tương lai(6).
Đóng góp của doanh nghiệp nhà nước vẫn chưa được như mong đợi. Nhiều doanh nghiệp nhà nước chưa thể hiện rõ vai trò trong việc dẫn dắt, tạo động lực, mở đường, hướng dẫn, thúc đẩy các thành phần khác phát triển, thúc đẩy liên kết chuỗi giá trị gia tăng. Doanh nghiệp nhà nước còn yếu ở những ngành có ảnh hưởng quyết định đến việc hỗ trợ nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế và của khu vực doanh nghiệp Việt Nam; trước hết là các ngành công nghệ cao, các ngành có khả năng dẫn dắt, chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại hóa, công nghiệp hóa như cơ khí chính xác, sản xuất, chế tạo linh kiện, máy móc và thiết bị hoàn chỉnh cho các ngành sản xuất; công nghệ nguồn... Việc doanh nghiệp nhà nước tham gia thực hiện các chính sách an sinh xã hội, phục vụ quốc phòng - an ninh có kết quả đáng ghi nhận, song thiếu rõ ràng về mục tiêu, nhiệm vụ và hiệu quả.
Nguyên nhân chính dẫn đến những hạn chế trên là do: Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh về doanh nghiệp nhà nước, trong đó có tập đoàn kinh tế, tổng công ty được rà soát và hoàn thiện nhưng còn bất cập. Đặc biệt hệ thống pháp luật về đầu tư, quản lý tài sản, đất đai, đấu giá, đấu thầu chưa đồng bộ, tạo kẽ hở để một số đối tượng lợi dụng nhằm trục lợi. Bên cạnh đó, chưa có định hướng, chiến lược phát triển cho khu vực doanh nghiệp nhà nước theo hướng bền vững; chiến lược phát triển của doanh nghiệp, trong đó có doanh nghiệp nhà nước chưa gắn với chiến lược phát triển ngành, lĩnh vực. Nhiều doanh nghiệp nhà nước có quy mô lớn chưa phát huy tính chủ động trong hoạt động sản xuất, kinh doanh. Trên thực tế, các quy trình, thủ tục của cơ quan đại diện chủ sở hữu theo quy định của pháp luật thường có độ trễ nhất định, trong khi hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp đòi hỏi phải đưa ra những quyết định nhanh, kịp thời để đón cơ hội đầu tư.
Một số giải pháp để nâng cao hiệu quả hoạt động khu vực doanh nghiệp nhà nước
Đất nước đang bước vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Bối cảnh, tình hình mới đang đặt ra nhiều vấn đề mới cho doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp nhà nước nói riêng, như vấn đề chuyển đổi số; phát triển và ứng dụng khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo; chuyển dịch đầu tư hướng tới đạt được mục tiêu phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050, phát triển bền vững, phát triển xanh, kinh tế tuần hoàn... (cần tập trung vào phát triển những lĩnh vực mới, đòi hỏi lượng vốn đầu tư cao, cần vai trò dẫn dắt của doanh nghiệp nhà nước, như hydrogen xanh, chất bán dẫn, điện gió ngoài khơi...).
Một trong những nhiệm vụ có tính đột phá quan trọng hàng đầu là phải nhanh chóng tháo gỡ những “điểm nghẽn” để doanh nghiệp nhà nước có thể bứt phá, lớn mạnh, trở thành nòng cốt của kinh tế đất nước. Trong đó, doanh nghiệp nhà nước có sứ mệnh, vị trí và vai trò quan trọng, dẫn dắt, tạo động lực, mở đường, hướng dẫn, cuốn hút, thúc đẩy các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác cùng phát triển, thúc đẩy liên kết chuỗi giá trị gia tăng, thực hiện các chính sách phát triển kinh tế, an sinh xã hội, xóa đói, giảm nghèo, trực tiếp bảo toàn và phát triển các nguồn lực quan trọng của đất nước, giữ vị trí chi phối trong nhiều ngành, lĩnh vực then chốt của nền kinh tế. Doanh nghiệp nhà nước trong bối cảnh mới, trước hết, cần đi nhanh vào các ngành công nghệ cao, các ngành có khả năng dẫn dắt, chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại hóa, công nghiệp hóa, như hạ tầng số, cơ khí chính xác hiện đại, sản xuất, chế tạo linh kiện, máy móc và thiết bị hoàn chỉnh cho các ngành sản xuất; công nghệ nguồn, vật liệu mới, năng lượng mới, các ngành thiết bị không gian, hàng hải, thiết bị thông minh...
Để làm được điều này, trong thời gian tới, cần thống nhất quan điểm:
Thứ nhất, cần có cơ chế bảo đảm để phân định rõ nhiệm vụ chính trị - xã hội mà Nhà nước giao cho với nhiệm vụ sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước. Cùng với đó, xóa bỏ cơ chế chủ quản theo lối hành chính quan liêu, bao cấp đối với các doanh nghiệp nhà nước, để các doanh nghiệp này được tự chủ trong cơ chế thị trường và tự chịu trách nhiệm về hiệu quả sử dụng đồng vốn của Nhà nước trước các cơ quan tài chính có thẩm quyền.
Thứ hai, cần xác định rõ quyền hạn, trách nhiệm của hội đồng quản trị và tổng giám đốc trong các doanh nghiệp nhà nước đối với vốn và tài sản nhà nước tại doanh nghiệp, để có thể vừa bảo đảm quyền chủ động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, vừa bảo toàn, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn và tài sản nhà nước.
Việc tách bạch 2 yếu tố sở hữu và quản trị rất quan trọng. Bởi vì, hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp không phụ thuộc vào yếu tố sở hữu mà phụ thuộc vào yếu tố quản trị doanh nghiệp. Nếu quản trị kém sẽ dẫn đến hiệu quả sử dụng vốn và hiệu quả hoạt động thấp. Đối với yếu tố sở hữu, vấn đề đặt ra là phải xác định rõ nội dung giám sát của Nhà nước, vai trò quản lý nhà nước và vai trò chủ sở hữu, cũng như vai trò chủ sở hữu với quyền quyết định kinh doanh.
Thứ ba, đẩy mạnh sắp xếp doanh nghiệp nhà nước theo hướng chỉ tập trung vào những ngành, lĩnh vực quan trọng, then chốt mà Nhà nước cần nắm giữ, chi phối, đồng thời kiên quyết sắp xếp các doanh nghiệp nhà nước hoạt động không hiệu quả, làm ăn thua lỗ kéo dài, không có khả năng khôi phục; chấn chỉnh tình trạng nhiều doanh nghiệp nhà nước mở quá rộng ngành, nghề mới nhưng không liên quan đến ngành, nghề chính, không góp phần làm cho ngành, nghề chính lớn mạnh mà còn làm cho nguồn lực bị phân tán, mang nhiều rủi ro trong kinh doanh. Đẩy mạnh quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước theo cơ chế thị trường.
Trên cơ sở đó, cần tập trung vào các nhiệm vụ cơ bản sau:
Một là, tiếp tục hoàn thiện thể chế, chính sách phát huy vai trò nòng cốt, dẫn dắt, mở đường của doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế; doanh nghiệp nhà nước cần là lực lượng tiên phong, dẫn đầu trong đổi mới sáng tạo, đổi mới mô hình quản trị, cơ cấu lại nguồn vốn, cơ cấu lại các chuỗi sản xuất, cung ứng… theo hướng hiện đại, phù hợp thông lệ quốc tế, chuyển đổi số, ứng dụng khoa học - công nghệ, ưu tiên các ngành mới nổi. Tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng cho khu vực doanh nghiệp nhà nước với doanh nghiệp của khu vực tư nhân, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài. Thúc đẩy doanh nghiệp nhà nước không ngừng nâng cao hiệu quả hoạt động để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn và tài sản nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả, tính bền vững của nền kinh tế. Lấy thước đo hiệu quả kinh tế làm kim chỉ nam cho các doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp nhà nước nói riêng vận hành. Tiến tới xóa bỏ các rào cản, khác biệt trong hoạt động của doanh nghiệp nhà nước với doanh nghiệp các khu vực kinh tế khác.
Thể chế cần bảo đảm huy động và quản lý có hiệu quả các nguồn lực cho phát triển, đặc biệt là nguồn tài nguyên thiên nhiên, nguồn đầu tư tài chính, nguồn ngân sách nhà nước. Thiết lập thể chế thúc đẩy sự sáng tạo, cải thiện môi trường kinh doanh, tạo điều kiện thuận lợi để thúc đẩy tinh thần khởi nghiệp, sáng tạo, nuôi dưỡng sự sáng tạo trong mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế, xã hội. Xây dựng các cơ chế, chính sách về thuế, tài chính nhằm khuyến khích doanh nghiệp đầu tư cho các hoạt động đổi mới công nghệ, nghiên cứu phát triển và đầu tư kinh doanh trong lĩnh vực công nghệ thông tin và các công nghệ tiên tiến khác.
Hai là, tiếp tục nâng cao hiệu quả hoạt động, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nhà nước theo hướng nâng cao chất lượng, cụ thể là nghiên cứu, hợp tác triển khai một số dự án năng lượng, công nghệ mới theo xu hướng dịch chuyển trên thế giới, tập trung làm mới các động lực tăng trưởng truyền thống (đầu tư, xuất khẩu, tiêu dùng), đồng thời đẩy mạnh các động lực mới như chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, kinh tế tuần hoàn, kinh tế tri thức, kinh tế chia sẻ, ứng phó biến đổi khí hậu. Chú trọng chuyển dịch hoạt động sản xuất, kinh doanh và đầu tư nhằm thực hiện cam kết của Việt Nam tại COP26. Đẩy mạnh áp dụng quản trị hiện đại theo thông lệ quốc tế; minh bạch hóa hoạt động đầu tư, kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước.
Ba là, thực hiện tách bạch triệt để nhiệm vụ sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ thông thường và nhiệm vụ sản xuất, cung cấp hàng hóa, dịch vụ công ích của doanh nghiệp nhà nước; bố trí vốn ngân sách trung ương cho doanh nghiệp nhà nước thực hiện nhiệm vụ chính trị được giao để bảo đảm an sinh xã hội, dịch vụ công ích. Đẩy nhanh việc xây dựng cơ chế, chính sách đặc thù để doanh nghiệp nhà nước thực hiện các nhiệm vụ đặt hàng của Nhà nước giao trong các lĩnh vực ưu tiên như các ngành công nghiệp nền tảng, công nghiệp mũi nhọn, các dự án đầu tư quy mô lớn, có sức lan tỏa, tạo động lực phát triển kinh tế - xã hội đất nước; giữ lại và sử dụng một phần tiền thu từ cổ phần hóa, thoái vốn để tái đầu tư các dự án đầu tư quan trọng quốc gia.
Bốn là, xây dựng cơ chế đào tạo và tuyển chọn đội ngũ cán bộ quản lý doanh nghiệp ngang tầm yêu cầu mới. Đẩy mạnh thí điểm chế độ thi tuyển để chọn giám đốc của từng doanh nghiệp nhà nước và chỉ bổ nhiệm có thời hạn dựa trên những điều kiện hợp lý mà các ứng cử viên đưa ra khi tham dự thi tuyển. Song song với đó, cần có một cơ chế đủ sức hấp dẫn để thu hút những người có tâm huyết và năng lực ấy vào đội ngũ quản lý doanh nghiệp nhà nước, đồng thời cần có cơ chế đánh giá, giám sát hiệu quả./.
Tài liệu tham khảo
(2), (3) Thanh Giang: Doanh nghiệp nhà nước phải tiên phong, giữ vai trò chủ đạo, dẫn dắt trong nền kinh tế, Báo Nhân dân điện tử, ngày 3-3-2024, https://nhandan.vn/no-luc-vuot-qua-moi-kho-khan-thach-thuc-phat-huy-vai-tro-chu-dao-cua-doanh-nghiep-nha-nuoc-post798408.html
(4) Lê Thị Thu Hương, Phạm Thị Thanh Bình: Thực trạng và một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước, Tạp chí Ngân hàng, ngày 11-7-2024, https://tapchinganhang.gov.vn/thuc-trang-va-mot-so-giai-phap-nang-cao-hieu-qua-hoat-dong-cua-doanh-nghiep-nha-nuoc.htm
(5) Lan Anh: Khi doanh nghiệp nhà nước có hàng trăm ngàn tỷ tiền mặt, Báo Vietnamnet, ngày 13-7-2024, https://vietnamnet.vn/khi-doanh-nghiep-nha-nuoc-co-hang-tram-ngan-ty-tien-mat-2301238.html
(6) Nguyễn Hoàng Anh: Tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước, xứng đáng làm nòng cốt của kinh tế nhà nước, dẫn dắt, tạo động lực xây dựng nền kinh tế Việt Nam độc lập, tự chủ gắn với hội nhập quốc tế, Tạp chí Cộng sản điện tử, ngày 5-10-2023, https://www.tapchicongsan.org.vn/media-story/-/asset_publisher/V8hhp4dK31Gf/content/tiep-tuc-doi-moi-nang-cao-hieu-qua-hoat-dong-cua-doanh-nghiep-nha-nuoc-xung-dang-lam-nong-cot-cua-kinh-te-nha-nuoc-dan-dat-tao-dong-luc-xay-dung-nen