22/12/2024 lúc 23:40 (GMT+7)
Breaking News

Một số nội dung cải cách tư pháp trong thời gian tới

Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đặt ra nhiệm vụ trọng tâm xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trong đó có cải cách tư pháp. Để thực hiện thành công Nghị quyết của Đảng, đòi hỏi phải đẩy mạnh cải cách tư pháp, phát huy những thành quả đạt được, khắc phục những hạn chế, khó khăn, bất cập, xây dựng nền tư pháp nước nhà tương đồng với trình độ chung của thế giới.

Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đặt ra nhiệm vụ trọng tâm xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trong đó có cải cách tư pháp. Để thực hiện thành công Nghị quyết của Đảng, đòi hỏi phải đẩy mạnh cải cách tư pháp, phát huy những thành quả đạt được, khắc phục những hạn chế, khó khăn, bất cập, xây dựng nền tư pháp nước nhà tương đồng với trình độ chung của thế giới. Đây là con đường tất yếu để đạt được các mục tiêu, yêu cầu của Đảng và đáp ứng sự mong đợi của nhân dân, hướng tới xây dựng nền tư pháp ngày càng chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng, nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân.

Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ dự Lễ khánh thành Trung tâm tư liệu - thư viện, Trung tâm giám sát, điều hành, phầm mềm trợ lý ảo cho thẩm phán, nền tảng xét xử trực tuyến của toà án nhân dân _Ảnh: TTXVN

Cải cách tư pháp trong hệ thống tòa án nhân dân (TAND) nhằm thực hiện có hiệu quả những nguyên tắc căn cốt trong hoạt động xét xử; nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động và uy tín của TAND - cơ quan thực hiện quyền tư pháp; xây dựng hệ thống TAND chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng, nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, hoàn thành trọng trách bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của tổ chức, cá nhân. Để đạt được mục tiêu trên, cần tập trung vào một số nội dung cải cách sau đây:

1- Làm rõ chủ thể thực hiện quyền tư pháp, nội hàm quyền tư pháp và đặc trưng cơ bản của quyền tư pháp

Nhận thức đúng và đầy đủ về nội hàm quyền tư pháp, chủ thể thực hiện quyền tư pháp và đặc trưng cơ bản của quyền tư pháp là vấn đề quan trọng, không chỉ có ý nghĩa khoa học mà còn có giá trị thực tiễn sâu sắc.

Thứ nhất, về chủ thể thực hiện quyền tư pháp.

Hiến pháp năm 2013 hiến định việc thực hiện quyền lực nhà nước: Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp (Điều 69); Chính phủ thực hiện quyền hành pháp (Điều 94); Tòa án thực hiện quyền tư pháp (Điều 102). Việc phân công thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp căn cứ vào những chức năng cơ bản của từng cơ quan, chứ không căn cứ vào hoạt động mà cơ quan đó tham gia. Trên thực tế, Chính phủ, TAND tối cao soạn thảo và trình Quốc hội một số dự án luật, không có nghĩa Chính phủ, TAND tối cao là các cơ quan thực hiện quyền lập pháp. Tương tự như vậy, để đưa một vụ án hình sự ra xét xử, cơ quan điều tra phải tiến hành điều tra, viện kiểm sát phải quyết định truy tố nhưng không có nghĩa các cơ quan này là cơ quan thực hiện quyền tư pháp. Như vậy, ở tầm hiến định, chủ thể thực hiện quyền tư pháp là tòa án và chỉ có tòa án.

Thứ hai, về nội hàm quyền tư pháp.

Nội hàm quyền tư pháp bao gồm:

- Quyền xét xử và đưa ra phán quyết đối với các tổ chức, cá nhân vi phạm pháp luật hình sự. Những phán quyết này thực chất là hình phạt của Nhà nước đối với các vi phạm pháp luật (tuyên bố tước tự do, tước một số quyền công dân, cấm cư trú, trục xuất, quản chế, tịch thu tài sản...). Hiến pháp, pháp luật chỉ giao cho tòa án được nhân danh Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tuyên phạt.

- Quyền phân định đúng - sai đối với các tranh chấp trong xã hội. Trên thực tế, có nhiều thiết chế phân định đúng - sai đối với các tranh chấp, xung đột, như cơ quan hành chính các cấp, thủ trưởng cấp trên, tổ chức hòa giải ở cơ sở... Nhưng tòa án nhân danh quyền lực nhà nước phân định đúng - sai bằng một bản án có hiệu lực pháp luật chứa đựng những đặc trưng khác biệt, buộc các bên phải thi hành.

- Quyền phán quyết, công nhận hoặc không công nhận các sự kiện pháp lý liên quan đến quyền con người hoặc có ý nghĩa làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ của các chủ thể (như tuyên bố một người đã chết; tuyên bố một người bị mất năng lực hành vi dân sự; xác định cha, mẹ cho con; hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên; công nhận hoặc không công nhận bản án, quyết định dân sự của tòa án nước ngoài, phán quyết của trọng tài nước ngoài...). Tham khảo kinh nghiệm quốc tế, đa số các quốc gia, hiến pháp, pháp luật chỉ giao cho tòa án áp dụng các biện pháp cưỡng chế và các biện pháp khác hạn chế quyền con người (bắt, tạm giữ, tạm giam, cấm xuất cảnh...) và được tiến hành theo một thủ tục tố tụng chặt chẽ, có tính độc lập cao.

- Quyền phán quyết tính hợp hiến, hợp pháp của các văn bản quy phạm pháp luật nhằm bảo đảm việc thực thi hiến pháp, pháp luật thống nhất trên phạm vi cả nước. Ở nhiều nước trên thế giới, cơ chế bảo hiến thường được giao cho Tòa án hiến pháp hoặc Tòa án tối cao đảm nhiệm. Thực hiện chức năng này, tòa án không chỉ xét xử các hành vi vi phạm hiến pháp, pháp luật, mà còn xem xét, phán quyết về các văn bản vi phạm hiến pháp, pháp luật. Ở nước ta, nhiệm vụ này được giao cho nhiều cơ quan nên có những hạn chế: phân tán, thiếu chuyên nghiệp, kém hiệu lực, không được quan tâm trên thực tế, dẫn đến vi phạm kéo dài xảy ra ở một số lĩnh vực, ảnh hưởng đến quyền lợi của người dân. Thực hiện quyền tư pháp này, tòa án còn có nhiệm vụ giải thích để áp dụng thống nhất pháp luật, phát triển án lệ, ban hành các nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. Đây cũng chính là một phần của quyền lực nhà nước giao cho tòa án và chỉ có tòa án mới thực thi được.

Thứ ba, về đặc trưng cơ bản của quyền tư pháp.

Đặc trưng cơ bản của quyền tư pháp bao gồm: Quyền tài phán nhà nước được thực hiện thông qua xét xử của tòa án; được thực hiện theo một quy trình tố tụng nghiêm ngặt của pháp luật; phán quyết tư pháp có hiệu lực bắt buộc mà các tổ chức, cá nhân phải nghiêm chỉnh chấp hành; phán quyết tư pháp khi đã tuân thủ đầy đủ quy trình tố tụng nhưng có sai sót thì không bị tố cáo, chỉ bị kháng cáo, kháng nghị; phán quyết tư pháp không bị thay đổi tùy tiện trừ khi bị chính tòa án thay đổi, hủy bỏ theo đúng trình tự, thủ tục luật định; phán quyết tư pháp được bảo đảm thi hành trên phạm vi lãnh thổ quốc gia và không bị giới hạn về thời gian theo quy định của pháp luật; phán quyết tư pháp được cưỡng chế thi hành bằng sức mạnh quyền lực nhà nước bởi một cơ quan thi hành án chuyên trách.

Bấm nút khai trương "Trung tâm Giám sát và điều hành hoạt động Tòa án nhân dân; Nền tảng xét xử trực tuyến; Phần mềm Trợ lý ảo và Trung tâm Tư liệu - Thư viện Tòa án nhân dân tối cao". Ảnh: Viettel

2- Thực hiện tốt nguyên tắc xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật

“Xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” là nguyên tắc căn cốt của tòa án và được mọi quốc gia tuân thủ. Nhà nước và xã hội có trách nhiệm bảo đảm cho tòa án và thẩm phán không bị bất cứ sự can thiệp nào cả trên phương diện tổ chức và hoạt động. Một số định hướng đổi mới để bảo đảm tính độc lập của tòa án được các nhà khoa học, các nhà hoạt động thực tiễn bàn đến trong nhiều diễn đàn là:

Một là, tổ chức tòa án theo thẩm quyền xét xử và không phụ thuộc vào đơn vị hành chính; thành lập tòa án khu vực trên cơ sở sáp nhập các tòa án cấp huyện.

Hai là, tổ chức các tòa chuyên trách sơ thẩm khu vực tùy thuộc vào tính chất và quy mô các vụ việc phải giải quyết. Theo đó bao gồm: Tòa sơ thẩm về sở hữu trí tuệ (thông thường mỗi quốc gia chỉ có một tòa án này); tòa án sơ thẩm hành chính khu vực...

Ba là, thực hiện quy trình phân công thụ lý án ngẫu nhiên, phân công ngẫu nhiên thẩm phán và hội thẩm trong hội đồng xét xử.

Bốn là, tổ chức hợp lý việc quản lý thẩm phán; điều kiện bảo đảm hoạt động của tòa án và thẩm phán không phụ thuộc vào cơ quan hành chính.

Năm là, ban hành các quy định về việc tham gia các hoạt động xã hội và kinh doanh của thẩm phán. Theo đó, thẩm phán không được tham gia bất cứ hoạt động phát sinh lợi nhuận nào trừ giảng dạy trong các cơ sở đào tạo luật và nghiên cứu khoa học với thời lượng hợp lý để không làm ảnh hưởng đến chuyên môn xét xử.

Sáu là, xây dựng cơ chế phòng ngừa sự can thiệp vào hoạt động xét xử bằng cách công khai mọi văn bản can thiệp để các bên tham gia tố tụng có thể tra cứu.

Bảy là, kiện toàn cơ chế bảo vệ thẩm phán đã thực thi nhiệm vụ đúng pháp luật, xây dựng các quy phạm để xử lý những hành vi xâm phạm sự tôn nghiêm của tư pháp.

Tám là, đổi mới cơ chế quản lý, tuyển chọn, đánh giá, bổ nhiệm, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ của tòa án.

3- Thực hiện tốt nguyên tắc công khai, minh bạch và tạo thuận lợi cho nhân dân tiếp cận thông tin tư pháp

Xây dựng chế độ tư pháp công khai, minh bạch, thuận lợi cho người dân đã trở thành xu thế, yêu cầu ở tất cả các quốc gia trên thế giới, nhất là những nước có nền tư pháp phát triển. Có quốc gia còn đưa ra phương châm “Công khai là nguyên tắc, không công khai là cá biệt”. Trong quá trình giải quyết vụ án, phải bảo đảm cho người dân thực hiện 6 quyền căn bản, gồm: Quyền được biết; quyền được trình bày; quyền bào chữa; quyền được đề nghị; quyền được kháng cáo; quyền được khiếu nại, tố cáo.

Những giải pháp thực hiện công khai, minh bạch hoạt động của TAND bao gồm: Thực hiện nghiêm quy định xét xử công khai, trừ trường hợp luật có quy định khác; cải cách hành chính tư pháp, xây dựng tòa án một cửa khi cung cấp các dịch vụ tư pháp cho nhân dân; tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin để thực hiện một số hoạt động tố tụng trên internet, như: nhận đơn, tống đạt giấy tờ, tài liệu, thông báo kết quả giải quyết đơn, kiểm tra chứng cứ, xét xử trực tuyến, xây dựng hồ sơ tố tụng điện tử để tăng tiện ích cho nhân dân, nâng cao hiệu quả hoạt động và công khai tư pháp; quy định và bố trí phòng xét xử có sự tham dự của truyền thông; tiến hành công khai trên cổng thông tin điện tử của tòa án các nội dung: công khai tiến độ giải quyết vụ án; công khai kế hoạch đưa vụ án ra xét xử; công khai các văn bản tố tụng; công khai các thủ tục tố tụng; công khai quá trình xét xử; công khai các bản án, quyết định của tòa án; công khai quá trình thi hành án; công khai quá trình giảm án...

4- Thực hiện tốt nguyên tắc xét xử công bằng, bình đẳng, bảo đảm tranh tụng

Công ước của Liên hợp quốc về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 khẳng định: “Mọi người đều bình đẳng trước các Tòa án và cơ quan tài phán. Mọi người đều có quyền được xét xử công bằng, công khai” (Điều 14). Ở nước ta, Hiến pháp năm 2013 quy định: “Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật” (Điều 16); “Người bị buộc tội phải được Tòa án xét xử kịp thời trong thời hạn luật định, công bằng, công khai” (Điều 31); “Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm” (Điều 103).

Như vậy, tiến trình phát triển của tư pháp tiến bộ ở Việt Nam đã tiếp cận “công bằng, bình đẳng trong xét xử” là quyền cơ bản của con người và đã được hiến định. Vi phạm nguyên tắc này là vi phạm quyền con người đã được Công ước của Liên hợp quốc và Hiến pháp quy định. Bảo đảm công bằng, bình đẳng trong xét xử có mối quan hệ chặt chẽ với nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong xét xử đã được hiến định là một trong những nguyên tắc quan trọng của hoạt động tòa án.

Cải cách tư pháp thời gian tới phải tiếp tục hoàn thiện cơ chế bảo đảm tranh tụng trong xét xử, đẩy mạnh hơn nữa tranh tụng tại tất cả các phiên tòa, không hạn chế thời gian dành cho tranh tụng, mọi vấn đề nêu ra trong tranh tụng phải được giải quyết đến cùng và ghi nhận trong bản án, căn cứ vào kết quả tranh tụng để ra phán quyết. Tòa án phải thường xuyên bồi dưỡng kiến thức cho thẩm phán để nâng cao kỹ năng điều hành phiên tòa có tranh tụng, đánh giá kết quả tranh tụng để ban hành các phán quyết tâm phục, khẩu phục. Phải bảo đảm công bằng trong thủ tục và trong phán quyết về vụ án. Thời gian qua, tòa án đã đổi mới mô hình phòng xử án, theo đó, bố trí kiểm sát viên (bên buộc tội) và luật sư (bên gỡ tội) có vị trí ngồi ngang nhau trong phòng xử án là thể hiện nguyên tắc công bằng, bình đẳng trong tranh tụng. Không được và không cho phép bất cứ hành vi phân biệt, bất bình đẳng nào trong quá trình xét xử, chỉ có như vậy, mới có được niềm tin của người dân vào công lý và sự công minh của pháp luật.

5- Đổi mới chế định tham gia của nhân dân vào quá trình xét xử

Nhân dân tham gia vào hoạt động của Nhà nước nói chung, hoạt động tư pháp nói riêng là đặc tính của Nhà nước dân chủ, tiến bộ. Tư tưởng xây dựng nền tư pháp “lấy dân làm gốc” đã được quy định ngay từ bản Hiến pháp đầu tiên (Hiến pháp năm 1946) và tiếp tục khẳng định trong các bản Hiến pháp sau này. Bản chất dân chủ không chỉ thể hiện ở việc các công chức tận tụy phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, mà còn thể hiện ở việc huy động nhân dân trực tiếp tham gia và giám sát hoạt động của Nhà nước. Nguyên tắc hiến định “Việc xét xử sơ thẩm của Tòa án nhân dân có Hội thẩm nhân dân tham gia” chính là cơ chế để nhân dân trực tiếp thực hiện quyền lực nhà nước. Hội thẩm tham gia xét xử mang đến phiên tòa những quan niệm đạo đức và sự đánh giá chung của xã hội về hành vi phạm tội và các tranh chấp theo quan niệm về lẽ phải, sự công bằng. Với kinh nghiệm, hiểu biết và kiến thức của mình, hội thẩm góp phần quan trọng xác định sự thật khách quan của vụ án, làm tăng thêm niềm tin của thẩm phán trong việc đưa ra phán quyết.

Tư pháp nhân loại tồn tại phổ biến 3 mô hình nhân dân tham gia quá trình xét xử: Mô hình Hội thẩm nhân dân (ở Việt Nam, Trung Quốc...); mô hình Hội thẩm đoàn (tương tự Bồi thẩm đoàn ở châu Âu, châu Mỹ...); đan xen, kết hợp hai mô hình trên (ở Nga...).

- Hội thẩm đoàn (bồi thẩm đoàn) gồm những người dân được lựa chọn theo luật để tham gia xét xử và được trao quyền quyết định một số vấn đề trong vụ án. Phạm vi tham gia của hội thẩm đoàn hầu như chỉ trong vụ án hình sự. Hội thẩm đoàn không nghiên cứu trước hồ sơ vụ án, tại phiên tòa cũng không đặt câu hỏi với các bên, chỉ nghe các bên tranh tụng. Hội thẩm đoàn có quyền phán quyết bị cáo có tội hay không có tội và nếu có tội thì có đáng được hưởng khoan hồng hay không. Các vấn đề còn lại của vụ án (như quyết định tội danh, hình phạt, áp dụng biện pháp tư pháp, bồi thường thiệt hại...) do thẩm phán quyết định.

- Hội thẩm nhân dân gồm những người được bầu, cử hoặc bổ nhiệm tùy theo pháp luật mỗi nước và tham gia xét xử sơ thẩm hầu hết các loại án (hình sự, dân sự, hành chính). Hội thẩm nhân dân và thẩm phán hợp thành hội đồng xét xử, do thẩm phán làm chủ tọa. Hội thẩm nhân dân nghiên cứu hồ sơ vụ án trước khi xét xử; về nguyên tắc, ngang quyền với thẩm phán trong việc quyết định những vấn đề thuộc thẩm quyền của hội đồng xét xử.

Trải qua thực tiễn hoạt động, hội thẩm nhân dân đã góp phần quan trọng hỗ trợ thẩm phán làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án, đưa ra các phán quyết “thấu tình, đạt lý”, phản ánh ý chí của nhân dân, giám sát từ bên trong quá trình xét xử. Tuy nhiên, cơ chế này cũng bộc lộ một số bất cập: Hội thẩm cơ bản là những người không chuyên về luật nhưng lại chiếm đa số trong thành phần hội đồng xét xử và ngang quyền với thẩm phán dẫn đến “gánh nặng” rất lớn cho hội thẩm; khi bản án bị hủy, sửa, việc thực hiện quy định về trách nhiệm và chế tài hiện nay chỉ đặt ra với thẩm phán (cách chức, không bổ nhiệm lại...), mà không đặt ra với hội thẩm; các vụ án dân sự, kinh tế có tính chuyên ngành rất cao trong khi hồ sơ phục vụ xét xử là do các đương sự tự xây dựng và cung cấp, thường có lợi cho từng bên nên rất khó khăn cho hội thẩm khi xét xử loại án này (với vụ án hình sự, hồ sơ do các cơ quan nhà nước lập)...

Để khắc phục những bất cập nêu trên, thời gian tới, cần nghiên cứu đổi mới chế định hội thẩm theo hướng: Hoàn thiện cơ chế hiện hành về hội thẩm nhân dân tham gia xét xử; nghiên cứu bổ sung cơ chế hội thẩm đoàn tham gia xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự; quy định rõ thẩm quyền, nhiệm vụ của hội thẩm nhân dân; đổi mới cơ cấu, thành phần hội thẩm nhân dân trong hội đồng xét xử theo hướng phù hợp với kiến thức chuyên môn của hội thẩm; tăng cường đào tạo, bồi dưỡng cho hội thẩm nhân dân và có chế độ, chính sách hợp lý; đổi mới cơ chế tuyển chọn, bầu cử, quản lý hội thẩm nhân dân; quy định chặt chẽ quy trình lựa chọn ngẫu nhiên hội thẩm nhân dân tham gia hội đồng xét xử; xây dựng bộ quy tắc đạo đức, trách nhiệm và quan hệ phối hợp của hội thẩm nhân dân; trình Quốc hội ban hành một đạo luật độc lập về hội thẩm nhân dân.

 6- Tìm kiếm và thực thi các giải pháp thay thế một số hoạt động tố tụng

Đánh giá hiệu quả hoạt động tư pháp, hiệu quả xét xử không chỉ căn cứ vào số lượng vụ án, vụ việc được giải quyết, mà phải dựa trên chất lượng xét xử, sự tâm phục, khẩu phục của các bên, sự đồng tình của dư luận xã hội, chi phí của Nhà nước và xã hội... Để nâng cao hiệu quả của tư pháp, nhiều quốc gia đã thành công trong việc tìm kiếm và thực thi các giải pháp thay thế. Lợi ích mà các giải pháp này mang lại là giảm đáng kể thời gian, công sức tiến hành tố tụng, chi phí của cả Nhà nước và xã hội, giảm số lượng vụ việc phải đưa ra tòa án xét xử và tăng thêm sự đồng thuận xã hội. Quá trình cải cách tư pháp luôn là quá trình tìm kiếm và đổi mới các giải pháp thay thế, bao gồm: Thay thế chứng minh, thay thế xét xử và thay thế thi hành án. Những giải pháp thay thế này gắn liền với hoạt động của tòa án nên phải được pháp điển hóa. 

Về giải pháp thay thế chứng minh: Nhiều nước có chế định “thỏa thuận nhận tội”, theo đó, đối với một số trường hợp nếu người phạm tội tự nguyện nhận tội và lời nhận tội phù hợp với các chứng cứ khác của vụ án, tự nguyện khắc phục hậu quả, chấp nhận hình phạt sẽ được xét xử rút gọn và hưởng một số chính sách hình sự khoan hồng (như: giảm 1/2 hình phạt, những tội đi kèm tội chính sẽ được đình chỉ điều tra). Nhiều nước cho phép công nhận “chứng cứ ngẫu nhiên” là loại chứng cứ không được thu thập theo thủ tục do luật tố tụng quy định (ví dụ: công nhận chứng cứ phạm tội được ghi nhận ngẫu nhiên từ trích xuất các camera công cộng). Ở Việt Nam, do luật chưa cho phép nên tốn rất nhiều thời gian, công sức, thủ tục để chuyển hóa chứng cứ. Nhiều nước công nhận tính hợp pháp của các “phần mềm phục hồi dữ liệu số” để thu thập chứng cứ điện tử. Đây là những phần mềm có tính năng phục hồi các dữ liệu đã bị xóa trong các thiết bị điện tử (điện thoại, máy tính, máy ảnh, máy photocopy...) và chỉ cho phép áp dụng với những phần mềm đã được quốc tế công nhận.

Về giải pháp thay thế xét xử: Hòa giải tại tòa án là một trong những giải pháp giải quyết các xung đột xã hội nhưng không phải qua xét xử. Trên cơ sở kết quả thí điểm và sáng kiến luật của TAND tối cao, Quốc hội đã thông qua Luật Hòa giải, đối thoại tại tòa án. Hiện nay, Luật Hòa giải này đã đi vào cuộc sống và ngày càng khẳng định là mô hình nhân văn, với phương thức thân thiện, cảm thông, chia sẻ đã giúp giải quyết triệt để nhiều tranh chấp mà không phải mở phiên tòa xét xử. Trong lĩnh vực hình sự, bước đầu nước ta đã cho phép hòa giải nhưng chỉ áp dụng với một số trường hợp liên quan đến người dưới 18 tuổi phạm tội (Điều 94, Bộ luật Hình sự). Tuy nhiên, nhiều nước, chế định hòa giải hình sự được áp dụng rộng hơn nhằm tạo điều kiện cho bên có lỗi khẩn trương bồi thường, khắc phục hậu quả để sớm kết thúc vụ án. Đây là một gợi ý hữu ích nên tham khảo.

Về giải pháp thay thế thi hành án: Pháp luật nước ta đã quy định một số chế định thay thế thi hành án, như: tha tù trước thời hạn có điều kiện; không thi hành án tử hình với người đã bị kết án về tội tham ô, tội nhận hối lộ mà đã nộp lại 3/4 tài sản do phạm tội mà có và đã hợp tác tích cực với cơ quan chức năng hoặc lập công lớn. Ở nhiều nước, để giảm tải cho khâu thi hành án, đã mở ra nhiều biện pháp thay thế như: thi hành hình phạt tù tại gia; cho phép quy đổi hình phạt tù thành hình phạt tiền áp dụng với một số tội lấy đồng tiền làm phương tiện và mục đích phạm tội (cho vay nặng lãi, sử dụng trái phép tài sản, đánh bạc...) và phải thỏa mãn thêm các điều kiện chặt chẽ khác; không thi hành án phạt tù với người chưa thành niên và cho áp dụng biện pháp khác để thử thách...

Tích cực tìm kiếm các giải pháp thay thế chứng minh, thay thế xét xử, thay thế thi hành án là hướng đi của các nước có nền tư pháp phát triển. Cải cách tư pháp ở nước ta thời gian tới cần tiếp cận cách làm này của các nước, đẩy mạnh nghiên cứu, trao đổi kinh nghiệm, tìm kiếm thêm các giải pháp mới để hướng đến đơn giản hóa hợp lý nghĩa vụ chứng minh, giảm áp lực thi hành án, hạn chế mở phiên tòa mà vẫn giải quyết nhanh chóng, hiệu quả các vụ việc. Như thế mới thực hiện được lời dạy của Bác Hồ: “Các chú xử hay là rất tốt, nhưng nếu không phải hay xử còn tốt hơn”.

7- Đổi mới và tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng, chế độ thi cử, bổ nhiệm thẩm phán; đề cao kỷ cương, kỷ luật công vụ

Xây dựng tòa án trong sạch, vững mạnh phải gắn liền với xây dựng và chỉnh đốn Đảng trong TAND. Trên cơ sở có được một đội ngũ đảng viên tốt, tòa án các cấp mới có đội ngũ thẩm phán tốt. Xét cho cùng, chất lượng hoạt động xét xử và uy tín của tòa án là do cán bộ tòa án, nhất là đội ngũ thẩm phán quyết định. Thời gian tới, cần tiếp tục nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng các chức danh tư pháp theo hướng thiết thực và sát với thực tiễn; bên cạnh kiến thức nền tảng, như kiến thức pháp luật, kiến thức kinh tế - xã hội toàn diện, cần tập trung đào tạo, bồi dưỡng để nâng cao kỹ năng điều hành xét xử và tranh tụng; kỹ năng áp dụng pháp luật, gồm cả pháp luật nội dung và pháp luật tố tụng; kỹ năng xây dựng các văn bản của tòa án, nhất là các bản án, quyết định bảo đảm đúng pháp luật, có sức thuyết phục. Quan tâm đào tạo, bồi dưỡng kiến thức cho cả thẩm phán và hội thẩm nhân dân. Hình thành hệ thống giáo trình bồi dưỡng nghiệp vụ và các tài liệu của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao về án lệ, giải đáp pháp luật, tổng kết thực tiễn xét xử. Tạo điều kiện cho đội ngũ thẩm phán, cán bộ tòa án, hội thẩm nhân dân tiếp cận những tài liệu này thuận lợi, miễn phí và không giới hạn. Tổ chức nghiêm và thực chất các kỳ thi tuyển chọn, nâng ngạch thẩm phán quốc gia. Tổ chức thực hiện thật tốt Bộ Quy tắc đạo đức và ứng xử của thẩm phán. Tăng cường giáo dục chính trị tư tưởng, nâng cao tinh thần trách nhiệm, niềm tự hào, tình yêu và bản lĩnh nghề nghiệp của đội ngũ thẩm phán. Nâng cao chất lượng công tác cán bộ (bố trí, đánh giá, quy hoạch, điều động, luân chuyển, bổ nhiệm...). Quy định về xử lý trách nhiệm người giữ chức danh tư pháp trong TAND và tổ chức thực hiện nghiêm túc. Đề cao kỷ cương, kỷ luật công vụ, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm.

8- Xây dựng thiết chế bảo đảm sự tôn trọng và bảo vệ tòa án; bảo đảm hợp lý chế độ, chính sách đối với cán bộ tòa án

Xây dựng thiết chế bảo đảm sự tôn trọng và bảo vệ tòa án để đề cao địa vị chính trị và trọng trách của cơ quan thực hiện quyền tư pháp, bảo đảm cho tòa án xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Tham khảo kinh nghiệm quốc tế cho thấy, nhiều nước ban hành đạo luật “bảo vệ quyền uy tư pháp”. Theo đó, quy định là tội phạm đối với một số hành vi, như gây mất trật tự phiên tòa; cản trở hoạt động xét xử; nhục mạ tòa án... Đồng thời, để thực hiện nghiêm nguyên tắc hai cấp xét xử (sơ thẩm, phúc thẩm), khắc phục tình trạng lạm dụng cơ chế giám đốc thẩm, tái thẩm đang có nguy cơ trở thành cấp xét xử thứ ba, cần quy định loại trừ và xử lý nghiêm các hiện tượng tiêu cực ảnh hưởng đến hoạt động xét xử như: Tố tụng giả (khởi kiện giả, làm giả hồ sơ vụ án, chứng cứ giả...); cố ý đeo bám tố tụng (khiếu nại, tố cáo nhiều lần và đã được nhiều cấp, nhiều ngành giải quyết độc lập và thống nhất, nhưng vẫn cố ý lặp lại nội dung cũ và không có tài liệu, chứng cứ mới); tố tụng ác ý (tạo tình huống để cài bẫy cán bộ tư pháp, sau đó tố cáo); tố tụng không nhất quán (khai báo và cung cấp tài liệu vòng vo, bất nhất).

Quá trình hoàn thiện pháp luật ở nước ta thời gian qua đã tập trung hoàn thiện các quy định phục vụ việc phát hiện, xử lý vi phạm và tội phạm. Tuy vậy, chưa quan tâm nhiều đến vấn đề tôn trọng và bảo vệ tính tôn nghiêm của tư pháp, loại trừ các hành vi xâm phạm sự tôn nghiêm tư pháp. Để bảo vệ tính tôn nghiêm của tư pháp, bảo đảm sự an toàn cho các cán bộ tiến hành tố tụng khi thực thi nhiệm vụ, thời gian tới, cần tham khảo kinh nghiệm quốc tế, nghiên cứu sửa đổi Bộ luật Hình sự theo hướng tội phạm hóa một số hành vi cản trở hoạt động tố tụng; xúc phạm các cơ quan tố tụng; cố ý làm giả hồ sơ, tài liệu nhằm kéo dài tố tụng, gây tốn kém nguồn lực, công sức của Nhà nước và xã hội, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể khác trong vụ án. Đồng thời, có các biện pháp để bảo đảm an toàn cho cán bộ tiến hành tố tụng và thân nhân của họ, nhất là trong các vụ án nghiêm trọng, nguy hiểm.

Xây dựng chế độ, chính sách đối với cán bộ tòa án. Hầu hết luật pháp các quốc gia đều coi thẩm phán là một nghề đặc biệt, do đó, rất nhiều nước có thang bảng lương riêng để phù hợp với tính chất đặc thù của công việc xét xử và bảo đảm độc lập của thẩm phán. Thậm chí, Nhật Bản, Liên bang Nga còn có luật riêng về lương và điều kiện bảo đảm cho thẩm phán. Ở nước ta, chế độ tiền lương của các chức danh tư pháp trong tòa án nói chung và của thẩm phán nói riêng đang được quy định như các công chức trong cơ quan hành chính nên không phù hợp với thực tế và thông lệ quốc tế. Cải cách chế độ tiền lương tới đây phải có những đổi mới căn cơ để khắc phục bất hợp lý hiện nay, có chính sách tiền lương và các điều kiện bảo đảm để phù hợp với đặc thù công tác xét xử, nhất là với các chức danh tư pháp (thẩm phán, thẩm tra viên, thư ký tòa án).

9- Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và sự giám sát của cơ quan dân cử

Bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng và sự giám sát của cơ quan dân cử là vấn đề có tính nguyên tắc để TAND hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Những giải pháp tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và sự giám sát của cơ quan dân cử bao gồm:

Thứ nhất, đổi mới tổ chức cơ sở đảng trong TAND phù hợp với đổi mới tổ chức của hệ thống tòa án theo hướng độc lập, hợp lý với địa giới hành chính; tăng cường chuyên môn sâu, đề cao kỷ cương, kỷ luật Đảng; bố trí chánh án các cấp tham gia cấp ủy cùng cấp với cương vị cao hơn hiện tại và phù hợp với từng địa bàn.

Thứ hai, gắn chặt công tác xây dựng Đảng với công tác xây dựng TAND, tổ chức thực hiện nghiêm túc các nghị quyết của Đảng, đặc biệt là các nghị quyết về cải cách tư pháp; nghị quyết về xây dựng và chỉnh đốn Đảng; Chỉ thị số 05-CT/TWcủa Bộ Chính trị, “Về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”; về trách nhiệm nêu gương của người đứng đầu; nêu gương của lãnh đạo cấp cao; về kiểm soát quyền lực...

Thứ ba, tăng cường sự giám sát của cơ quan dân cử và tổ chức chính trị - xã hội đối với hoạt động của TAND; duy trì chế độ báo cáo định kỳ và đột xuất của TAND tối cao và TAND các địa phương trước Quốc hội và Hội đồng nhân dân. Đề cao kỷ cương, kỷ luật nội bộ.

Thứ tư, thực hiện phương châm “công khai là nguyên tắc, không công khai là cá biệt”. Xây dựng các quy định về công khai, minh bạch hoạt động của tòa án để nhân dân tiếp cận thông tin và giám sát tư pháp. Ứng dụng công nghệ thông tin rộng rãi để tăng tính minh bạch của tòa án. Tăng cường kiểm tra việc thực hiện nguyên tắc công khai của tòa án các cấp. Tạo điều kiện để cơ quan truyền thông tham gia đưa tin về các phiên tòa xét xử. Công khai tư pháp chính là liều thuốc hữu hiệu để phòng, chống tiêu cực, xây dựng tòa án liêm chính.

10- Xây dựng tòa án điện tử

Sự phát triển như vũ bão của công nghệ thông tin vừa tạo cơ hội để tòa án làm tốt công tác xét xử, vừa đặt ra nhiều vấn đề mới đòi hỏi phải có những thay đổi mạnh mẽ. Tình hình mới nhưng vẫn hoạt động theo phương thức cũ và dựa trên công nghệ cũ sẽ không đáp ứng được yêu cầu đặt ra. Vì vậy, phải nắm bắt các cơ hội do sự phát triển của công nghệ thông tin mang lại để đẩy nhanh quá trình chuyển đổi số và hoàn thành việc xây dựng tòa án điện tử vào năm 2025 với những nhiệm vụ chính, cần tập trung như sau:

Một là, xây dựng tòa án điện tử hướng tới thực thi và nâng cao năng lực quản trị tòa án trên nền tảng số. Theo đó, ứng dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin để giúp tòa án quản lý những lĩnh vực: Quản lý hoạt động tố tụng; quản lý nhân sự; quản lý và lưu trữ hồ sơ số; hỗ trợ đắc lực công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; hỗ trợ công tác thống kê và hình thành các kho dữ liệu lớn của tòa án; quản lý cơ sở vật chất, trang thiết bị, tài chính.

Hai là, xây dựng tòa án điện tử cung cấp các dịch vụ tư pháp công hướng tới phục vụ nhân dân tốt hơn. Đặc biệt là các loại dịch vụ công: Gửi, nhận đơn khởi kiện, tài liệu, chứng cứ và thực hiện cấp, tống đạt, thông báo văn bản của tòa án qua phương tiện điện tử; đăng ký trực tuyến cấp sao bản án và tài liệu trong hồ sơ vụ án; nộp án phí, lệ phí, tiền phạt trực tuyến; tra cứu các thông tin về vụ án; cung cấp các bản án đã được xét xử và phần mềm phân tích các tình huống pháp lý tương tự để hỗ trợ người dân đưa ra các quyết định tư pháp, đoán định tư pháp; cung ứng các dịch vụ tư vấn pháp lý.

Ba là, xây dựng tòa án điện tử hỗ trợ thẩm phán nâng cao hiệu quả và chất lượng hoạt động. Hiện nay, TAND tối cao đã đưa vào sử dụng “Trợ lý ảo” cung cấp các dịch vụ thông minh hỗ trợ thẩm phán thông qua các tính năng: Giới thiệu hệ thống pháp luật liên quan; giới thiệu các tình huống pháp lý tương tự đã được Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao tổng kết thực tiễn xét xử; giới thiệu các án lệ liên quan; giới thiệu các bản án tương tự đã có hiệu lực pháp luật; hỗ trợ lập kế hoạch giải quyết án, lập và quản lý hồ sơ án điện tử; tự động tạo các tài liệu pháp lý theo mẫu; hỗ trợ phân tích, xác minh thông tin và phát hiện các sai sót; mã hóa, đăng tải bản án, quyết định lên Cổng Thông tin điện tử của tòa án...

Bốn là, xây dựng tòa án điện tử để triển khai các hoạt động tố tụng trực tuyến, bao gồm: Nộp đơn khởi kiện, cung cấp chứng cứ, khai báo trực tuyến; nộp án phí, lệ phí, tiền phạt vi phạm trực tuyến; tổ chức trực tuyến các phiên hòa giải trong vụ án dân sự và đối thoại trong vụ án hành chính; xét xử trực tuyến sơ thẩm và phúc thẩm các vụ án hình sự, dân sự, hành chính; tổ chức trực tuyến các phiên họp để giải quyết các việc dân sự; tống đạt, thông báo trực tuyến các văn bản tố tụng...

Năm là, xây dựng tòa án điện tử góp phần tăng cường tính công khai, minh bạch trong hoạt động của tòa án. Trên nền tảng số, tòa án phấn đấu thực hiện tốt 7 nội dung công khai sau: Hệ thống pháp luật, các nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao, các án lệ...; việc phân công cán bộ thụ lý án; tiến độ thụ lý và giải quyết án; quá trình xét xử tại phiên tòa; kết quả xét xử; quá trình và kết quả thi hành án; quá trình và kết quả xét miễn, giảm án.

Sáu là, xây dựng tòa án điện tử để kết nối với các nền tảng số khác. Qua đó cho  phép tòa án khai thác các cơ sở dữ liệu quốc gia phục vụ tốt hơn nhiệm vụ của mình, đồng thời chia sẻ, phát huy tối đa hữu ích cơ sở dữ liệu của TAND để phục vụ quá trình xây dựng xã hội số, kinh tế số, nâng cao hiệu quả quản trị quốc gia./.

PGS, TS. NGUYỄN HÒA BÌNH

Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao