Một số kết quả nổi bật trong bước đầu liên kết vùng phát triển du lịch
Ngành du lịch được Đảng và Nhà nước xác định sẽ trở thành ngành kinh tế trọng điểm của Việt Nam trong thời kỳ đổi mới, nhiều chủ trương, chính sách được đề ra và triển khai nhằm đưa du lịch thực sự trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, tạo nền tảng và cơ sở để các ngành, lĩnh vực khác phát triển, góp phần quan trọng hình thành cơ cấu nền kinh tế hiện đại(1). Tây Nguyên là vùng có vị trí chiến lược quan trọng với nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển du lịch, do đó, phát triển du lịch là một trong những nhiệm vụ cấp thiết luôn được các cấp chính quyền quan tâm. Thời gian qua, các tỉnh vùng Tây Nguyên đã triển khai những giải pháp đồng bộ nhằm đưa du lịch Tây Nguyên từng bước trở thành ngành kinh tế quan trọng, đóng góp tích cực vào sự phát triển kinh tế - xã hội của vùng; góp phần đẩy mạnh việc xóa đói, giảm nghèo và xây dựng nông thôn mới; bảo đảm an sinh xã hội, giữ vững quốc phòng, an ninh và trật tự, an toàn xã hội.
Tây Nguyên là vùng có sự liên kết chặt chẽ về địa hình, giao thông với các vùng khác, như Duyên hải miền Trung, Đông Nam Bộ; nhiều tuyến du lịch lớn đã được hình thành, như: “Con đường di sản miền Trung”, “Con đường xanh Tây Nguyên”, tuyến du lịch xuyên Á nối Việt Nam với các nước Đông Dương, xa hơn là với các nước trong khối ASEAN và quốc tế,... Xác định du lịch là ngành kinh tế tổng hợp mang tính liên ngành, liên vùng với phương châm “muốn đi xa phải đồng hành cùng nhau”, trên con đường phát triển du lịch, bước đầu các tỉnh đã có sự hợp tác, liên kết nội vùng, liên vùng trên cơ sở những lợi thế so sánh để cùng thúc đẩy du lịch phát triển. Ví dụ như việc xây dựng thành công tuyến du lịch “Con đường xanh Tây Nguyên” khởi nguồn từ Đà Nẵng và kết thúc ở Lâm Đồng với nhiều sản phẩm du lịch sinh thái đặc sắc cho thấy tầm quan trọng cũng như vai trò của liên kết trong phát triển du lịch giữa Nam Trung Bộ và Tây Nguyên. Do đó, các hoạt động liên kết, hợp tác là chiến lược lâu dài, phù hợp và quan trọng đối với sự phát triển du lịch của vùng Tây Nguyên hiện nay.
Những năm gần đây, Đảng bộ, chính quyền các tỉnh vùng Tây Nguyên đã chỉ đạo, ban hành nhiều văn bản có tầm chiến lược, nhằm định hướng hợp tác, liên kết phát triển du lịch(2), mang lại một số kết quả tích cực cho ngành du lịch của Tây Nguyên trong việc liên kết hợp tác nội vùng và ngoại vùng, cụ thể: Tỉnh Lâm Đồng đang thực hiện các chương trình liên kết, hợp tác phát triển du lịch giữa tỉnh với các địa phương trong và ngoài vùng Tây Nguyên (Lâm Đồng - Khánh Hòa; Lâm Đồng - Thành phố Hồ Chí Minh - Bình Thuận; Lâm Đồng - Kiên Giang; Lâm Đồng - Đồng Nai; Lâm Đồng - Quảng Bình, Lâm Đồng - Nghệ An, Lâm Đồng - Ninh Thuận,...)(3). Tỉnh Đắk Lắk tổ chức hợp tác, liên kết phát triển du lịch với các tỉnh nội vùng (Lâm Đồng, Kon Tum, Gia Lai) và các tỉnh, thành phố ngoại vùng (Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Bà Rịa - Vũng Tàu, Phú Yên, Bình Định, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Thừa Thiên Huế, Hà Tĩnh, Quảng Ninh)(4). Tỉnh Gia Lai cũng có các chương trình hợp tác tương tự như hợp tác ngoại vùng (Thủ đô Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Phú Yên, Bình Định) và hợp tác với các tỉnh nội vùng (Kon Tum, Đắk Lắk)(5).
Bên cạnh đó, mỗi tỉnh đều xây dựng các chiến lược, kế hoạch liên kết, hợp tác với các tỉnh trong vùng và các vùng phụ cận dựa trên lợi thế nổi bật, nhằm khai thác hiệu quả tiềm năng, điều kiện tự nhiên, nguồn lực nhân văn, sinh thái,... sẵn có, độc đáo của từng địa phương.
Trong giai đoạn 2016 - 2020, tỉnh Đắk Lắk đã ký kết liên kết, hợp tác phát triển du lịch song phương và đa phương với 16 tỉnh, thành phố trong cả nước(6) với nội dung hợp tác chủ yếu tập trung trên 4 lĩnh vực: xúc tiến, quảng bá du lịch; trao đổi thông tin về tình hình phát triển du lịch, quy hoạch và kêu gọi đầu tư; phát triển sản phẩm du lịch; bồi dưỡng, đào tạo nguồn nhân lực du lịch. Trên cơ sở đó, tỉnh đã đề nghị các địa phương liên kết, phối hợp tuyên truyền có hiệu quả các sự kiện lớn, như: các hội nghị, hội chợ, triển lãm do các tỉnh đăng cai tổ chức; lễ hội Cà phê Buôn Ma Thuột năm 2019; cụm liên kết các tỉnh Tây Nguyên với chủ đề “Tây Nguyên Đại ngàn - VietNam’s Central Highlands of Vast Jungles”; Hội chợ Du lịch quốc tế Việt Nam - VITM Hanoi; Tổ chức mời các tỉnh, thành phố: Thừa Thiên Huế, Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Nghệ An và tỉnh Jeollabuk (Hàn Quốc) đến khảo sát sản phẩm, dịch vụ du lịch tại Đắk Lắk từ ngày 22 đến 25-11-2019 nhằm kết nối, thu hút khách du lịch đến với Đắk Lắk,... Một số doanh nghiệp du lịch, như Saigontourist, Viettravel, Công ty Văn hóa Việt(7),... đã có nghiên cứu và đưa tuyến, điểm du lịch tại các địa phương và tỉnh Đắk Lắk vào chương trình tour du lịch để giới thiệu cho du khách.
Tỉnh Lâm Đồng chú trọng triển khai các hoạt động liên kết, hợp tác phát triển du lịch với các địa phương trên lĩnh vực chủ yếu, như đầu tư, quảng bá, xúc tiến, xây dựng sản phẩm, đào tạo nguồn nhân lực du lịch,... Việc triển khai hợp tác liên kết vùng, liên kết sản phẩm đã phát huy hiệu quả tích cực, thể hiện ở một số nội dung, như tăng cường thu hút đầu tư, mở rộng kết nối tour tuyến, phát triển và đa dạng hoá sản phẩm du lịch; quảng bá hình ảnh du lịch địa phương, thu hút du khách đến tham quan, nghỉ dưỡng,... Ngoài ra, tỉnh còn xây dựng được thương hiệu “Chợ Sài Gòn - Hoa Đà Lạt - Biển Mũi Né”, “Du lịch Rừng và Biển” trong chương trình hợp tác Tam giác phát triển du lịch Lâm Đồng - Bình Thuận - Thành phố Hồ Chí Minh và Lâm Đồng - Khánh Hòa, được đánh giá có hiệu quả nhất trong số các chương trình liên kết, hợp tác du lịch hiện nay.
Tỉnh Đắk Nông tập trung khai thác phát triển du lịch bền vững trên nền tảng phát huy các lợi thế tự nhiên sẵn có, đặc trưng văn hóa, bản sắc các dân tộc, đặc biệt là hệ thống hang động núi lửa ở Đắk Nông đã được các nhà khoa học phát hiện. Cuối năm 2020, Công viên địa chất toàn cầu UNESCO Đắk Nông được Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên hợp quốc (UNESCO) công nhận, gia nhập Mạng lưới Công viên địa chất toàn cầu của UNESCO, tạo điểm nhấn mới, nhiều tiềm năng cho ngành du lịch của tỉnh phát triển.
Tỉnh Kon Tum đã và đang đẩy mạnh phát triển ngành du lịch nhằm phát huy lợi thế của địa phương trong những năm gần đây. Ngày 22-4-2022, Ủy ban nhân dân (UBND) tỉnh Kon Tum phối hợp với Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch tổ chức Diễn đàn “Du lịch Kon Tum - Tiềm năng và triển vọng”. Tại diễn đàn, Tổng cục Du lịch đã công bố Kế hoạch phát triển du lịch khu vực “Tam giác phát triển Việt Nam - Lào - Cam-pu-chia giai đoạn 2021 - 2025, tầm nhìn đến năm 2030”, đây là chiến lược quan trọng trong liên kết phát triển du lịch với quốc tế tại tỉnh Kon Tum nói riêng và vùng Tây Nguyên nói chung. Bên cạnh đó, nhiều hoạt động ký kết các chương trình, thỏa thuận hợp tác được diễn ra, như Chương trình hợp tác toàn diện giữa tỉnh Kon Tum và Tổng Công ty Hàng không Việt Nam giai đoạn 2022 - 2026; thỏa thuận hợp tác phát triển du lịch 6 tỉnh: Bình Định, Đắk Lắk, Gia Lai, Kon Tum, Phú Yên, Quảng Ngãi,...
Nhìn chung, các địa phương đã chú trọng công tác liên kết, hỗ trợ nhau trong tuyên truyền, quảng bá, xúc tiến du lịch tại sự kiện văn hóa, chính trị; tích cực tham gia các hội nghị, hội chợ, triển lãm do các tỉnh đăng cai tổ chức, cùng tổ chức gian hàng chung tại các hội thảo, hội chợ du lịch,... để nâng cao hình ảnh thương hiệu của vùng với nhiều hoạt động văn hoá, ẩm thực, du lịch đặc sắc, mang đậm bản sắc văn hóa đặc trưng của các dân tộc Tây Nguyên, thu hút hàng triệu lượt du khách trong và ngoài nước đến tham quan, góp phần quảng bá hình ảnh, tiềm năng đầu tư, thương mại và du lịch của từng địa phương.
Nhờ có sự liên kết, hợp tác mà lượng khách du lịch của các tỉnh tăng hằng năm. Từ năm 2010 đến nay, lượng khách du lịch đến Lâm Đồng tăng đều, tốc độ tăng trưởng trung bình là 10,42%, trong đó có khoảng 50% khách du lịch đến từ Thành phố Hồ Chí Minh và khu vực Đồng bằng Sông Cửu Long (chủ yếu do các doanh nghiệp lữ hành tại Thành phố Hồ Chí Minh đưa khách đến Lâm Đồng). Có khoảng 20% lượng khách du lịch đến từ Khánh Hòa và các tỉnh khu vực miền Trung, đặc biệt là lượng khách quốc tế nối tour đến Đà Lạt - Lâm Đồng thông qua sân bay Cam Ranh - Khánh Hòa. Tour du lịch kết nối Lâm Đồng - Khánh Hòa cũng là một trong những tour nội địa hiện đang phổ biến và khai thác hiệu quả. Về thu hút đầu tư, trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng hiện có 226 dự án đầu tư cho lĩnh vực du lịch, trong đó có trên 100 dự án với tổng số vốn đăng ký khoảng 30.000 tỷ đồng do các nhà đầu tư từ Thành phố Hồ Chí Minh thực hiện (chiếm khoảng 44% tổng số dự án được chấp thuận đầu tư) và 3 dự án du lịch với số vốn đăng ký khoảng 100 tỷ đồng do các nhà đầu tư đến từ tỉnh Bình Thuận thực hiện(8). Điều này cho thấy, Lâm Đồng đã đạt được những kết quả nhất định trong lĩnh vực thu hút đầu tư từ các tỉnh, thành phố khác.
Tương tự như vậy, các tỉnh Đắk Lắk, Gia Lai, Kon Tum đã liên kết, hợp tác với nhau tham gia vào Cụm liên kết các tỉnh Tây Nguyên với chủ đề “Tây Nguyên Đại ngàn - Vietnam’s Central Highlands of Vast Jungles”. Năm 2019, Đắk Lắk cùng với Bình Định và Phú Yên tổ chức gian hàng chung của ba tỉnh với chủ đề: “Điểm đến của Biển xanh và Đại ngàn - The destinations of Vast jungle and Blue sea” được trang trí một số hình ảnh mang nét đặc trưng riêng của 3 tỉnh tại Hội chợ ITE HCMC 2019. Những hoạt động trên nhằm chào đón, giới thiệu đến du khách trong và ngoài nước một chương trình du lịch văn hóa đặc sắc, với rất nhiều sự lựa chọn linh hoạt dành cho khách du lịch và các đơn vị kinh doanh dịch vụ lữ hành. Những sự kiện này đã mang lại kết quả đáng ghi nhận, lượng khách du lịch đến các địa phương ngày càng tăng.
Những khó khăn, hạn chế
Bên cạnh một số kết quả đạt được, công tác liên kết, hợp tác trong phát triển du lịch ở các tỉnh vùng Tây Nguyên vẫn còn những hạn chế, tồn tại dẫn đến hiệu quả hợp tác, liên kết chưa cao, phát triển chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế của vùng, thể hiện chủ yếu ở một số khía cạnh sau:
Thứ nhất, đối với vấn đề liên kết nội vùng, tư duy phát triển theo hình thức “mạnh ai nấy làm” tương đối phổ biến ở các tỉnh vùng Tây Nguyên, thực tế, chưa có bản ký kết chung giữa 5 tỉnh Tây Nguyên về phát triển du lịch của vùng mà chủ yếu là giữa tỉnh này với tỉnh kia. Mặc dù có những lợi thế so sánh khá tương đồng về bản sắc văn hoá của các dân tộc thiểu số tại chỗ, về sinh thái tự nhiên, nguồn nhân lực,... nhưng do chưa có ban điều phối chung, nên tình trạng trùng lặp về sản phẩm du lịch vẫn xảy ra, dẫn đến khách du lịch chỉ tập trung chủ yếu ở một số tỉnh như Lâm Đồng, Đắk Lắk.
Thứ hai, công tác liên kết, hợp tác nội vùng, liên vùng vẫn gặp khó khăn, vướng mắc, chưa triển khai được như kế hoạch, nội dung đã ký kết do bị chi phối bởi nguồn kinh phí hạn chế, công tác xã hội hóa trong phát triển du lịch chưa mạnh mẽ. Bên cạnh một số ít hoạt động liên kết, hợp tác có hiệu quả vẫn còn tình trạng ký kết, hợp tác chỉ mang tính hình thức; chưa duy trì tốt cơ chế đã thỏa thuận, thiếu sự phối hợp tham gia liên kết, hợp tác phát triển du lịch giữa các địa phương trong các hoạt động xúc tiến, quảng bá du lịch,... Ví dụ: Chương trình liên kết hợp tác giữa Lâm Đồng và các địa phương khác, như Đà Nẵng, Cần Thơ, Kiên Giang, Ninh Thuận, Phú Yên, Nghệ An hiện chỉ dừng lại ở việc ký kết biên bản hợp tác, thông báo và tham gia một số chương trình, sự kiện do địa phương tổ chức, các nội dung khác hầu như chưa triển khai thực hiện.
Thứ ba, một số nội dung ký kết chưa cụ thể, nhiều nội dung chưa triển khai hoặc có triển khai nhưng chưa tích cực, như: đào tạo nguồn nhân lực, xây dựng ấn phẩm, các chương trình quảng bá xúc tiến chung đến thị trường nước ngoài. Sự phối hợp giữa các doanh nghiệp trong việc hợp tác, xây dựng và cung cấp những chương trình, sản phẩm du lịch mang đậm dấu ấn vùng, miền chưa được quan tâm đúng mức. Các hoạt động liên kết xây dựng tour du lịch gắn kết với các sự kiện của địa phương chưa được phát huy, chưa tạo ra các chương trình, sản phẩm mới, độc đáo. Ngoại trừ Lâm Đồng, các tỉnh khác thu hút đầu tư từ các doanh nghiệp vẫn rất hạn chế, khó khăn.
Thứ tư, điều kiện kết cấu hạ tầng ở các tỉnh Tây Nguyên kết nối đến các vùng khác còn nhiều khó khăn, đặc biệt là hệ thống đường bộ bị xuống cấp nghiêm trọng ở nhiều nơi, ảnh hưởng xấu đến việc khai thác các chương trình du lịch kết nối giữa các địa phương, như: đường nội vùng như quốc lộ 27 nhỏ hẹp và xuống cấp, trở thành rào cản của tuyến du lịch kết nối giữa “Con đường di sản miền Trung” với “Con đường xanh Tây Nguyên”, “Không gian cồng chiêng Tây Nguyên”, hệ thống đường bộ đến các tỉnh Nam Trung Bộ nhiều đoạn chưa được đầu tư, xây mới,...
Một số giải pháp thúc đẩy liên kết vùng trong thời gian tới
Trên cơ sở định hướng phát triển du lịch chung của vùng Tây Nguyên, cùng với những khó khăn, hạn chế trong quá trình liên kết phát triển du lịch trong thời gian qua; để triển khai các chương trình hợp tác, liên kết đi vào chiều sâu và mang lại hiệu quả tương xứng với nguồn lực sẵn có, các tỉnh Tây Nguyên cần tập trung thực hiện một số giải pháp sau:
Thứ nhất, các tỉnh Tây Nguyên cần xác định việc hợp tác, liên kết nội vùng là yếu tố quan trọng trong việc thúc đẩy phát triển du lịch của toàn vùng. Chính quyền các tỉnh cần có những chính sách và nỗ lực ở tầm vĩ mô và vi mô để hỗ trợ, tạo điều kiện cho cộng đồng doanh nghiệp du lịch; có tầm nhìn dài hạn trong quy hoạch và phát triển hạ tầng; chủ động xây dựng chính sách hấp dẫn để thu hút các nhà đầu tư, đặc biệt là các nhà đầu tư chiến lược để định vị hình ảnh, sản phẩm và thương hiệu đặc trưng từng vùng, miền, địa phương, nhất là phát triển chuỗi các sản phẩm du lịch mới, hấp dẫn, liên vùng và liên quốc gia, với chất lượng cao, tích hợp nhiều tiện ích, trải nghiệm thú vị hơn cho du khách.
Thứ hai, kết cấu hạ tầng giao thông là yếu tố then chốt bảo đảm sự thành công trong hợp tác, liên kết phát triển du lịch vùng, nhất là đối với khu vực vùng đất rộng, địa hình phức tạp như Tây Nguyên. Vì vậy, cần xây dựng các tiểu vùng và kết nối tuyến đường giao thông thuận tiện cho phát triển các tuyến du lịch; nâng cấp các tuyến giao thông đường bộ quan trọng trên địa bàn vùng và tuyến đường qua các cửa khẩu quốc tế quan trọng như Bờ Y, Bu Brăng,..; phát triển kết cấu hạ tầng về đường hàng không để gia tăng khả năng liên kết phát triển du lịch nội vùng, liên vùng và quốc tế.
Thứ ba, duy trì và tuân thủ cơ chế đã thỏa thuận trong chương trình liên kết, hợp tác phát triển du lịch giữa các tỉnh vùng Tây Nguyên với các địa phương. Tiếp tục triển khai ký kết giai đoạn tiếp theo đối với các tỉnh, thành phố đã liên kết, hợp tác có hiệu quả cao; chủ động hoạch định các chính sách phát triển kinh tế - xã hội, tuyên truyền nâng cao ý thức cộng đồng cùng các cấp quản lý thực hiện nghiêm túc Luật Bảo vệ môi trường, Luật Du lịch, các điều ước quốc tế về bảo vệ môi trường - tài nguyên quốc gia; đồng thời, chủ động xây dựng kế hoạch ứng phó với biến đổi khí hậu ở lĩnh vực du lịch trong khuôn khổ “Chương trình mục tiêu quốc gia về ứng phó với biến đổi khí hậu”, phát triển du lịch gắn với bảo tồn các loài sinh vật cảnh, động, thực vật qúy hiếm, bảo vệ chủ quyền quốc gia.
Thứ tư, tăng cường, chú trọng liên kết trong các hoạt động quảng bá du lịch, xây dựng chính sách quản lý, phát triển sản phẩm, nguồn lực du lịch,... từng bước định vị thương hiệu du lịch đặc trưng, tạo điểm nhấn mới lạ, hấp dẫn với nhiều sản phẩm đa dạng, chất lượng dịch vụ tốt cho các địa điểm. Tiếp tục đổi mới công tác xúc tiến và quảng bá hình ảnh du lịch vùng Tây Nguyên bằng các hoạt động, sự kiện Festival, lễ hội đặc trưng độc đáo của từng địa phương qua trang thông tin điện tử, phương tiện truyền thông nhằm tạo mối liên kết các điểm đến trong vùng với nhau và cũng là cơ hội để thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước để phát triển đa dạng các loại hình du lịch.
Thứ năm, cần đẩy mạnh phát triển thương mại điện tử, liên kết và cung cấp thông tin về dịch vụ du lịch để đăng tải trên trang thông tin điện tử của các tỉnh vùng Tây Nguyên. Hiện nay, công nghệ số hoá phát triển mạnh, cần ứng dụng công nghệ số vào hoạt động quảng bá, xúc tiến du lịch; chú ý nghiên cứu thị trường để tập trung vào thị trường trọng điểm, thị trường khách quốc tế, thị trường truyền thống,... Đồng thời, nghiên cứu xây dựng các chính sách kích cầu du lịch; tiến hành thực hiện các ấn phẩm, vật phẩm chung như chương trình, sự kiện văn hóa, thể thao, du lịch, phát hành đĩa phim du lịch giữa các địa phương, xuất bản cẩm nang du lịch... Theo đó, cần có sự nghiên cứu cụ thể ở nhiều lĩnh vực, như văn hóa, ẩm thực đặc trưng, phong tục, tập quán sinh hoạt cư dân địa phương, nhằm định hướng các giá trị cốt lõi của cộng đồng, giữ gìn và phát triển không gian văn hóa để nuôi dưỡng, bảo tồn và phát huy những giá trị ấy.
Thứ sáu, xây dựng nguồn nhân lực du lịch đủ mạnh cho các chủ thể liên kết trong phát triển du lịch vùng Tây Nguyên. Các tỉnh trong vùng cần có chính sách ưu đãi nhằm tạo ra đội ngũ nhân lực chất lượng cao, trong đó tập trung phát triển kỹ năng nghề, nâng cao nhận thức của chủ thể liên kết du lịch về thế mạnh của địa phương. Thực hiện công tác đào tạo, đào tạo lại thường xuyên nhằm nâng cao trình độ quản lý, năng lực công tác và nghiệp vụ du lịch cho cán bộ, nhân viên đang công tác trong ngành cũng như ở các doanh nghiệp hay các điểm, các khu du lịch từng bước được nâng cao kiến thức, phục vụ chuyên nghiệp, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của hoạt động du lịch. Đề cao ý thức phát triển du lịch với bảo vệ môi trường, văn hóa địa phương, vận động cộng đồng dân cư thực hiện những chính sách của chính quyền và tạo ra sự hưởng lợi cho người dân địa phương./.
-------------------------
(1) Nghị quyết số 08-NQ/TW, ngày 16-1-2017, của Bộ Chính trị, “Về phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn”; Quyết định số 147/QĐ-TTg, ngày 22-1-2020, của Thủ tướng Chính phủ, về “Phê duyệt Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2030”; Quyết định 2162/QĐ-TTg, ngày 11-11-2013, của Thủ tướng Chính phủ, về “Phê duyệt “Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch vùng Tây Nguyên đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030””; Quyết định 2292/QĐ-BVHTTDL, ngày 13-8-2021, của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, về“Ban hành Chương trình hành động phát triển du lịch giai đoạn 2021 - 2025”
(2) Nghị quyết số 07-NQ/TU, ngày 16-11-2016, của Tỉnh ủy Lâm Đồng, “Về phát triển du lịch chất lượng cao giai đoạn 2016 - 2020, định hướng đến năm 2025 trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng”; Chương trình số 43-CTr/TU, ngày 26-6-2017, của Tỉnh ủy Gia Lai, về “Thực hiện nghị quyết số 08-NQ/TW, ngày 16 tháng 01 năm 2017 của Bộ Chính trị về phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn”; Đề án 08-ĐA/TU, ngày 8-4-2022, của Tỉnh ủy Đắk Lắk, về “Phát triển du lịch tỉnh Đắk Lắk giai đoạn 2021 - 2025 và định hướng đến năm 2030”.
(3) Tỉnh ủy Lâm Đồng: Báo cáo sơ kết đánh giá 05 năm thực hiện Nghị quyết số 07-NQ/TU, “Về phát triển du lịch chất lượng cao giai đoạn 2016 - 2020, định hướng đến năm 2025 trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng”, ngày 16-11-2016.
(4) Tỉnh ủy Đắk Lắk: Đề án số 08-ĐA/TU về phát triển du lịch tỉnh Đắk Lắk giai đoạn 2021 - 2025 và định hướng đến năm 2030, ngày 2-3-2022.
(5) Tỉnh ủy Gia Lai: Báo cáo số 560-BC/TU về sơ kết 3 năm thực hiện Chương trình số 43-CTr/TU của Ban Thường vụ Tỉnh ủy Gia Lai về thực hiện Nghị quyết số 08-NQ/TW, ngày 16-1-2017, của Bộ Chính trị về phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, ngày 19-6-2020.
(6) Các thành phố: Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Đà Nẵng, Cần Thơ, Hải Phòng và các tỉnh Lâm Đồng, Bình Định, Phú Yên, Gia Lai, Quảng Nam, Quảng Bình, Bà Rịa - Vũng Tàu, Nghệ An, Thừa Thiên Huế, Quảng Ninh, Bạc Liêu.
(7) Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Đắk Lắk: Báo cáo đánh giá kết quả công tác liên kết, hợp tác phát triển du lịch giữa tỉnh Đắk Lắk với các địa phương trong nước giai đoạn 2016 - 2020, 2020
(8) Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Lâm Đồng: Báo cáo tình hình triển khai các chương trình liên kết hợp tác phát triển du lịch giữa Lâm Đồng với các địa phương, 2021