Thực trạng hoạt động và những khó khăn, lo lắng của doanh nghiệp
Trong đó, các bộ, ngành và địa phương tiếp tục nỗ lực tháo gỡ rào cản, khó khăn vướng mắc, khơi thông nguồn lực trong xã hội nhằm thu hút đầu tư trong và ngoài nước. Nhờ vậy, tuy khó khăn vẫn còn nhiều, nhưng trên cơ sở tình hình đăng ký doanh nghiệp năm 2023, Cục Quản lý đăng ký kinh doanh (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) vẫn dự báo tổng số doanh nghiệp đăng ký thành lập mới năm 2024 dự kiến tăng 2% so với năm 2023, đạt khoảng 162,5 nghìn doanh nghiệp. Đối với số doanh nghiệp quay trở lại hoạt động, trên cơ sở tình hình năm 2023 giảm 2,4% so với cùng kỳ năm 2022, Cục Quản lý đăng ký kinh doanh điều chỉnh ước thực hiện năm 2024 là khoảng 68 nghìn doanh nghiệp, tăng 16% so với cùng kỳ năm 2023. Nhưng số doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường năm 2024 dự kiến lại vẫn tăng khoảng 3,5% so với cùng kỳ năm 2023.
Dự báo về những khó khăn của doanh nghiệp trong năm 2024, Tổng cục Thống kê cho rằng, các rủi ro tiềm ẩn từ môi trường kinh tế thế giới vẫn còn hiện hữu và tiếp tục tác động tiêu cực lên triển vọng phục hồi tăng trưởng kinh tế của Việt Nam. Tăng trưởng thương mại toàn cầu tiếp tục xu hướng thấp, chịu ảnh hưởng từ cạnh tranh địa chính trị diễn biến căng thẳng, khó lường, bên cạnh áp lực từ giá dầu thô, lương thực biến động mạnh sẽ tác động đến xu hướng phục hồi của doanh nghiệp trong năm 2024. Trong khi đó ở trong nước, khó khăn, thách thức vẫn còn lớn, nhất là từ những yếu tố bất lợi bên ngoài và những hạn chế, bất cập nội tại đã kéo dài nhiều năm. Diễn biến bất lợi của thế giới, khu vực sẽ tiếp tục tác động mạnh mẽ đến hoạt động sản xuất kinh doanh, sản xuất công nghiệp, xuất nhập khẩu, thu hút đầu tư… của nước ta. Sản xuất kinh doanh, đời sống của một bộ phận người dân còn khó khăn, sức chống chịu của doanh nghiệp bị bào mòn, hậu quả và tác động của dịch Covid-19 tiếp tục kéo dài, cộng hưởng với những khó khăn, thách thức mới từ đầu năm 2023 đến nay.
Đúng là hoạt động của doanh nghiệp thì không phải lúc nào cũng thuận lợi, vì có rất nhiều yếu tố, cả chủ quan và khách quan ảnh hưởng đến quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nhưng có thể nói, chưa bao giờ hệ thống các doanh nghiệp nước ta lại khó khăn như trong mấy năm nay, đặc biệt là từ sau đại dịch Covid-19 đến nay.
Nói đến những khó khăn và lo lắng của doanh nghiệp thì có nhiều, nhưng những vấn đề mà doanh nghiệp phải đối mặt lúc này lại là bất cập của chính sách, hoặc thường xuyên có sự thay đổi về chính sách liên quan đến hoạt động của doanh nghiệp, nhất là những chính sách về thuế, khiến doanh nghiệp đã khó lại càng khó hơn. Thêm nữa là sự chậm trễ trong việc thay đổi, điều chỉnh về cơ chế, chính sách cùng với thực thi có phần cứng nhắc cũng khiến cho doanh nghiệp khó hồi phục sau đại dịch. Bên cạnh đó, doanh nghiệp còn lo ngại về hợp tác làm ăn, quan hệ dân sự kinh tế mà bị hình sự hóa. Thực trạng văn bản pháp luật thiếu thống nhất, không phù hợp, không khả thi, khác biệt (nhất là trong lĩnh vực đầu tư, đất đai, xây dựng, nhà ở, môi trường, tài nguyên,…), bất cập trong chính sách tồn tại và chậm được giải quyết. Bên cạnh đó là điều kiện kinh doanh quy định còn chung chung, thiếu minh bạch, bất hợp lý, gây khó cho doanh nghiệp… Đó là những nỗi lo có thực và cũng là những yếu tố trực tiếp tác động không thuận lợi đến hoạt động của doanh nghiệp thời gian qua. Cho nên không khó hiểu khi không ít doanh nghiệp gần như chỉ biết cầm cự chờ thị trường khởi sắc để có thể quay trở lại hoạt động. Chính vì vậy, tăng cường trách nhiệm của cơ quan áp dụng pháp luật trên cơ sở nhìn nhận thẳng vào những vấn đề trên và sẵn sàng đổi thay, là việc rất cần làm hiện nay.
Đâu là giải pháp để doanh nghiệp hồi phục và phát triển
Nói đi thì cũng nên nói lại, bối cảnh mới cũng mở ra nhiều cơ hội cho doanh nghiệp, tuy nhiên các doanh nghiệp Việt Nam còn rất nhiều hạn chế về quy mô, năng lực, trình độ quản trị… nên nếu không chủ động nâng cao năng lực cạnh tranh thì rất khó để nắm bắt được các cơ hội đó.
Nghị quyết số 41-NQ/TW ngày 10/10/2023 của Bộ Chính trị “về xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ doanh nhân Việt Nam trong thời kỳ mới” đã đặt mục tiêu: “Phát triển đội ngũ doanh nhân Việt Nam có quy mô, năng lực và trình độ đáp ứng mục tiêu CNH, HĐH đất nước”; phấn đấu ngày càng có nhiều doanh nghiệp đạt tầm khu vực, một số doanh nghiệp lớn có vai trò dẫn dắt trong các ngành, lĩnh vực then chốt; có vị thế, vai trò quan trọng trong chuỗi cung ứng, chuỗi giá trị toàn cầu; có năng lực cạnh tranh quốc tế trong các ngành công nghiệp nền tảng, ưu tiên, mũi nhọn… Đây là mục tiêu và yêu cầu rất quan trọng, đòi hỏi không chỉ quyết tâm lớn ở tầm vĩ mô, mà cả sự đồng bộ trong những giải pháp về cơ chế, chính sách gắn với sự phát triển của doanh nghiệp. Nghĩa là bên cạnh nỗ lực của chính các doanh nghiệp nhằm khắc phục những bất hợp lý trong quản trị, đầu tư, vận hành sản xuất, kinh doanh dẫn tới kém hiệu quả, thì các cơ quan quản lý, cơ quan chức năng phải nỗ lực rất lớn trong việc đồng hành vượt khó cùng doanh nghiệp. Đơn cử như hệ thống ngân hàng, cần đồng hành tiếp sức bằng những chính sách tín dụng cụ thể, khả thi như tiếp tục giảm lãi suất, cơ cấu gia hạn, giãn nợ, bám sát DN, kịp thời đánh giá phương án kinh doanh của DN để cho vay... Hay như một biện pháp cũng rất quan trọng lúc này là tăng tổng cầu nền kinh tế, giải quyết hàng tồn kho của doanh nghiệp thông qua tăng cầu tiêu dùng, nâng sức mua. Cùng với đó là thúc đẩy xuất khẩu thông qua việc tập trung khai thác, vận dụng và phát huy hiệu quả các hiệp định thương mại tự do FTA mà Việt Nam đã ký kết để đa dạng hóa, mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hóa cho DN…
Chính sách tài chính cũng rất quan trọng để doanh nghiệp vượt qua khó khăn. Cần tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt, kịp thời, hiệu quả, chính sách tài khóa mở rộng hợp lý, có trọng tâm, trọng điểm và các chính sách khác góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế, ổn định thị trường tiền tệ, ngoại hối và hệ thống ngân hàng. Đồng thời, thực hiện các giải pháp tín dụng phù hợp đáp ứng nhu cầu vốn cho nền kinh tế; các tổ chức tín dụng cần hướng tín dụng vào các lĩnh vực sản xuất kinh doanh, lĩnh vực ưu tiên và các động lực tăng trưởng kinh tế. Khuyến khích các tổ chức tín dụng đơn giản hóa thủ tục cho vay, phấn đấu giảm mặt bằng lãi suất cho vay nhằm hỗ trợ nền kinh tế. Tiếp tục rà soát, hoàn thiện thể chế, pháp luật, cơ chế, chính sách gắn với nâng cao hiệu lực, hiệu quả tổ chức thực hiện pháp luật; đẩy mạnh cắt giảm, đơn giản hóa thủ tục hành chính, quy định kinh doanh gắn với thúc đẩy mạnh mẽ chuyển đổi số…
Liên quan đến vấn đề tài chính – ngân hàng, thực ra cần cả phía ngân hàng và doanh nghiệp cùng chia sẻ khó khăn, cùng phối hợp gỡ khó. Chẳng hạn với cơ quan ngân hàng, vẫn biết cần phải đẩy mạnh tăng trưởng tín dụng, song cũng không thể bất chấp hiệu quả dẫn tới mất vốn, mất an toàn của các tổ chức tín dụng, bởi nguồn cho vay của các ngân hàng là tiền huy động của dân, phải trả lại cho người dân. Vì vậy, ngân hàng có thể giãn, hoãn nợ để hỗ trợ doanh nghiệp, song không phải là cấp phát, cho vay vẫn phải thu hồi được nợ.
Ngân hàng cho rằng, sở dĩ có tình trạng ngân hàng thừa tiền, doanh nghiệp thiếu vốn là do doanh nghiệp thiếu phương án kinh doanh tốt khiến hai bên không gặp nhau. Trong khi cũng có những doanh nghiệp cho rằng, việc tiếp cận vốn khó khăn không phải ở phương án kinh doanh… Vì vậy, cả hai phía cần sự hợp tác, chia sẻ thực chất hơn để cùng phát triển.
Ở tầm vĩ mô, thông qua việc hoàn thiện, bổ sung cơ chế, chính sách, Chính phủ tiếp tục tạo môi trường đầu tư kinh doanh công bằng, thông thoáng và minh bạch; bãi bỏ các rào cản, quy định về điều kiện kinh doanh không cần thiết, bất hợp lý. Tháo gỡ những điểm nghẽn trong huy động nguồn lực, sản xuất kinh doanh phù hơp với những quy định và cam kết quốc tế. Các bộ, ngành, địa phương chủ động hỗ trợ doanh nghiệp nhằm giúp kết nối đối tác mới, mở rộng thị trường để khắc phục đứt gãy chuỗi cung ứng; đa dạng hóa đối tác; giảm chi phí đầu vào cho doanh nghiệp; nâng cao năng lực cho các doanh nghiệp trong nước, phát triển công nghiệp hỗ trợ, qua đó thúc đẩy kết nối với doanh nghiệp FDI, doanh nghiệp lớn, từng bước tham gia bền vững vào chuỗi cung ứng toàn cầu, gia tăng giá trị sản xuất nội địa. Về phía doanh nghiệp, cần chủ động cập nhật, tiếp cận, ứng dụng công nghệ mới của cuộc Cách mạng 4.0; tiên phong đổi mới sáng tạo; thực hiện chuyển đổi số, ứng dụng kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, mạnh dạn đầu tư hình thành các trung tâm đổi mới sáng tạo tại doanh nghiệp; tập trung đầu tư vào những lĩnh vực mới, công nghệ kỹ thuật khoa học hiện đại. Tiếp tục hỗ trợ doanh nghiệp thông qua việc thúc đẩy các chính sách, chương trình để tận dụng được lợi ích của công nghệ số trong hoạt động doanh nghiệp…/.
Lê Xuân Minh