Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình gắn kết, giao lưu, hợp tác giữa nền kinh tế quốc gia vào nền kinh tế quốc gia khác hay tổ chức kinh tế khu vực và toàn cầu. Hội nhập kinh tế quốc tế là một trong những xu thế lớn và tất yếu trong quá trình phát triển của mỗi quốc gia cũng như toàn thế giới.
Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế được hình thành và phát triển cùng với sự phát triển của quá trình tự do hóa thương mại và xu hướng mở cửa nền kinh tế của các quốc gia. Hội nhập kinh tế quốc tế nhằm giải quyết các vấn đề chủ yếu như: Đàm phán cắt giảm các hàng rào thuế quan; Đàm phán cắt giảm các hàng rào phi thuế quan; Giảm thiểu các hạn chế đối với hoạt động dịch vụ; Giảm thiểu các trở ngại đối với hoạt động đầu tư quốc tế; Giảm thiểu các trở ngại đối với hoạt động dĩ chuyển sức lao động quốc tế; Điều chỉnh các công cụ, quy định của chính sách thương mại quốc tế khác.
Chương này tập trung giới thiệu những nội dung cơ bản về tác động của hội nhập kinh tế quốc tế, các loại hình hội nhập kinh tế quốc tế của một quốc gia và liên hệ thực tế, giới thiệu về quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam.
Ảnh minh họa - Internet
1. Tác động của hội nhập kinh tế quốc tế
Thực chất của hội nhập kinh tế quốc tế là việc thực hiện quá trình quốc tế hóa kinh tế trên cơ sở các nước tự nguyện tham gia và chấp nhận thực hiện những điều khoản, nguyên tắc đã được thoả thuận thống nhất trên nguyên tắc bình đẳng cùng có lợi.
Việc tham gia vào quá trình hội nhập kinh tế quốc te đem lại nhiều tác động tích cực cho các quốc gia tham gia, tuy nhiên nó cũng đưa lại không ít tác động tiêu cực.
1.1 Tác động tích cực
- Trên cơ sở các hiệp định đã kí kết, các chương trình phát triển kinh tế, khoa học kĩ thuật, văn hóa, xã hội... được phối hợp thực hiện giữa các nước thành viên; từng quốc gia thành viên có cơ hội và điều kiện thuận lợi để khai thác toi ưu lợi thế quốc gia trong phân công lao động quốc tế, từng bước chuyển dịch cơ cấu sản xuất và cơ cấu xuất nhập khẩu theo hướng hiệu quả hơn; tạo điều kiện và tăng cường phát triển các quan hệ thương mại và thu hút đầu tư nước ngoài, mở rộng thị trường xuất khẩu và nhập khẩu.
- Tạo nên sự ổn định tương đối để cùng phát triển và sự phản ứng linh hoạt trong việc phát triển các quan hệ kinh tế quốc tế giữa các quốc gia thành viên, thúc đẩy việc tạo dựng cơ sở lâu dài cho việc thiết lập và phát triển các quan hệ song phương, khu vực, và đa phương.
- Hình thành cơ cấu kinh tế quốc tế mới với những ưu thế về quy mô, nguồn lực phát triển, tạo việc làm, cải thiện thu nhập cho dân cư và gia tăng phúc lợi xã hội.
- Tạo động lực cạnh tranh, kích thích ứng dụng thành tựu khoa học công nghệ, đổi mới cơ cấu kinh tế, cơ chế quản lý kinh tế; học hỏi kinh nghiệm quản lý từ các nước tiên tiến.
- Tạo điều kiện cho mỗi nước tìm cho mình một vị trí thích hợp trong trật tự thế giới mới, giúp tăng uy tín và vị thế; tăng khả năng duy trì an ninh, hoà bình, ổn định và phát triển ở phạm vi khu vực và thế giới.
- Giúp hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật quốc gia về kinh tế phù hợp với luật pháp, thông lệ quốc tế; từ đó tăng tính chủ động, tích cực trong hội nhập kinh tế quốc tế.
1.2 Tác động tiêu cực
- Tạo ra sức ép cạnh tranh giữa các thành viên khi tham gia hội nhập, khiến nhiều doanh nghiệp, ngành nghề có thể lâm vào tình trạng khó khăn, thậm chí phá sản.
- Làm tăng sự phụ thuộc của nền kinh tế quốc gia vào thị trường khu vực và thế giới. Điều này khiến một quốc gia dễ bị sa lầy vào các cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu hay khu vực.
- Các nước đang và kém phát triển phải đối mặt với nguy cơ trở thành “bãi rác” công nghiệp của các nước công nghiệp phát triển trên thế giới.
- Hội nhập kinh tế quốc tế tạo ra một số thách thức đối với quyền lực Nhà nước theo quan niệm truyền thống.
- Làm tăng nguy cơ bản sắc dân tộc, văn hóa truyền thống bị xói mòn, lấn át bởi văn hóa nước ngoài.
- Hội nhập kinh tế quốc tế có thể đặt các nước trước nguy cơ gia tăng tình trạng khủng bố quốc tế, buôn lậu, tội phạm xuyên quốc gia, dịch bệnh, di dân, nhập cư bất hợp pháp.
- Hội nhập không phân phối công bằng lợi ích và rủi ro cho các nước và nhóm nước khác nhau trong xã hội. Do đó, dễ làm tăng khoảng cách giàu nghèo, tụt hậu giữa các quốc gia hay tầng lớp dân cư trong xã hội.
2. Các loại hình hội nhập kinh tế quốc tế
2.1 Hợp tác kinh tế song phương
Loại hình đầu tiên cần nhắc tới khi nền kinh tế một quốc gia hội nhập cùng các nền kinh tế quốc gia khác là hợp tác kinh tế song phương. Hợp tác kinh tế song phương có thể tồn tại dưới dạng một thoả thuận, một hiệp định kinh tế, thương mại, đầu tư hay hiệp định tránh đánh thuế hai lần, các thoả thuận thương mại tự do (FTAs) song phương...
Loại hình hội nhập này thường hình thành rất sớm từ khi mỗi quốc gia có chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế.
Tại Việt Nam, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986) được coi là cột mốc quan trọng đánh dấu sự thay đổi trong quá trình phát triển kinh tế đất nước. Đại hội được ví là “Đại hội của sự đổi mới”. Đại hội nhấn mạnh đến việc mở rộng giao lưu quốc tế để thu hút vốn đầu tư nước ngoài nhằm phát triển kinh tế đất nước. Sau Đại hội, hàng chục hiệp định thương mại, đầu tư song phương đã được kí kết giữa Việt Nam và các nước khác trên thế giới. Ví dụ: Hiệp định về Thúc đẩy và bảo hộ đầu tư lẫn nhau giữa Việt Nam và Australia ngày 05/3/1991; Hiệp định giữa Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ Vương quốc Thái Lan về Khuyến khích và Bảo hộ đầu tư lẫn nhau ngày 30/10/1991; Hiệp định giữa Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ nước Cộng hoà Liên bang Nga về Khuyến khích và bảo hộ đầu tư ngày 16/6/1994; Hiệp định Thương mại giữa Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa ngày 07/11/1991; Hiệp định giữa Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa về Khuyến khích và bảo hộ đầu tư ngày 02/12/1992.
Tính đến ngày 30/12/2018, Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với 185 nước (so với 11 nước năm 1954); có 16 đối tác chiến lược, 14 đối tác toàn diện. Việt Nam đã kí kết được trên 90 hiệp định thương mại song phương; gần 60 hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư; 75 hiệp định tránh đánh thuế hai lần và ngăn ngừa việc trốn lậu thuế thu nhập với các nước/vùng lãnh thổ trên thế giới. Có thể kể đến một số hiệp định kinh tế song phương của Việt Nam với các đối tác quan trọng như: Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ (2000), Hiệp định Đối tác kinh tế Việt Nam - Nhật Bản (VJEPA - 2008) - Đây là FTA song phương đầu tiên của Việt Nam (được kí kết ngày 25/12/2018, có hiệu lực ngày 01/10/2009), Hiệp định Thương mại tự do song phương Việt Nam - Hàn Quốc (2015)...
2.2 Hội nhập kinh tế khu vực
Xu hướng khu vực hóa xuất hiện từ khoảng những năm 50 của thế kỉ XX và phát triển cho đến ngày nay. Sự phân loại và khái niệm về các loại hình hội nhập kinh tế khu vực có sự thay đổi theo sự phát triển của nền kinh tế thế giới. Theo kinh nghiệm hội nhập kinh tế khu vực của Tây Âu, các học giả phân loại hội nhập kinh tế khu vực thành các cấp độ từ thấp đến cao: Khu vực Mậu dịch tự do (FTA), Liên minh Hải quan (CU), Thị trường chung (CM), Liên minh Kinh tế và tiền tệ (EMU).
a) Khu mậu dịch tự do (FTA - theo quan niệm truyền thống)
Khu vực mậu dịch tự do là liên kết kinh tế giữa hai hoặc nhiều nước nhằm mục đích tự do hóa buôn bán một số mặt hàng nào đó, từ đó thành lập thị trường thống nhất giữa các nước, nhưng mỗi nước thành viên vẫn thi hành chính sách thuế quan độc lập với các nước ngoài khu vực mậu dịch tự do.
Với cách hiểu trên, yếu tố tự do di chuyển trong các FTA theo quan niệm truyền thống chỉ là hàng hóa, mỗi nước thành viên trong quan hệ đối ngoại với các nước ngoài FTA vẫn thi hành chính sách thuế quan độc lập. Với lý do này, các học giả cho rằng đây là cấp độ thấp nhất của hội nhập kinh tế khu vực.
Ví dụ: Trong Khu vực Mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) 1993 - 2015 (từ 31/12/2015 chuyển thành Cộng đồng Kinh tế ASEAN), thuế quan giữa các nước thành viên chỉ là 0 - 5%. Tuy nhiên, mỗi thành viên của Khu vực Mậu dịch tự dọ ASEAN (AFTA) lại có chính sách thuế quan riêng đối với các nước ngoài khu vực, như: Mức thuế suất nhập khẩu trung bình của Việt Nam (mức thuế MFN) với các thành viên WTO là 13,4%, trong khi Singapore có mức thuế 0% cho hàng hóa nhập khẩu từ Hoa Kỳ.
Cách hiểu theo quan niệm truyền thống trên về FTA hiện không còn phù hợp. Đặc biệt từ những năm 90 của thế kỉ XX đến nay đã xuất hiện trào lưu FTA thế hệ mới, theo đó, khái niệm FTA không chỉ tạo ra sự tự do dịch chuyển hàng hóa, mà còn bao hàm sự tự do dịch chuyển của nhiều yếu tố khác như: dịch vụ, vốn, lao động... (nội dung về các FTA thế hệ mới sẽ được nghiên cứu sâu hơn ở phần Ó.2.2.2).
Ví dụ: Khu vực Mậu dịch tự do Bắc Mỹ (NAFTA) được đánh giá là một hiệp định thương mại toàn diện và tiên tiến ở thời điểm ra đời. Đây là mô hình FTA hiện đại vượt ra khỏi khái niệm FTA truyền thống với sự tự do dịch chuyển của hàng hóa, dịch vụ, sức lao động và đầu tư.
Theo quan điểm của Walter Goode đưa ra trong Từ điển Chính sách thương mại quốc tế thì FTA được hiểu là “Một nhóm gồm hai hay nhiều nước cùng xóa bỏ thuế quan và tất cả hoặc phần lớn các biện pháp phi thuế quan ảnh hưởng đến thương mại giữa các nước này. Các nước tham gia FTA có thể tiếp tục áp dụng thuế quan của nước mình đối với hàng hóa bên ngoài, hoặc nhất trí xây dựng một biểu thuế quan đối ngoại chung”. Khái niệm FTA này giống với khái niệm Liên minh hải quan (CU) ở điểm cho phép thiết lập một biểu thuế quan đối ngoại chung.
b) Liên minh hải quan (Customs Union - CU)
Liên minh hải quan là liên kết kinh tế trong đó các nước thành viên thỏa thuận loại bỏ thuế quan trong quan hệ thương mại nội bộ, đồng thời thiết lập một biểu thuế quan chung của các nước thành viên đối với phần còn lại của thế giới.
Theo Từ điển Chính sách thương mại quốc tế của Walter Goode: “Liên minh hải quan là một khu vực gồm có hai hay nhiều nền kinh tế hoặc lãnh thổ hải quan riêng biệt, có quy định loại bỏ mọi loại thuế và đôi khi cả những rào càn đối với việc mở rộng thương mại giữa chúng. Các thành viên lập nên khu vực sau đó sẽ áp dụng một loại thuế đối ngoại chung”.
Như vậy, có thể nhận thấy, cu là hình thức liên kết có tính thống nhất, tổ chức cao hơn so với FTA. Cả hai loại hình hội nhập kinh tế khu vực này đều là sự thỏa thuận giữa hai hoặc nhiều quốc gia, theo đó các quốc gia thỏa thuận với nhau về loại bỏ thuế quan và các hàng rào phi thuế quan khác đối với toàn bộ hoặc một phần hoạt động mậu dịch của họ. Nhưng, trong chính sách thuế quan với các nước ngoài khối thì FTA và CU có sự khác biệt. Nếu như trong FTA: Các nước thực hiện chính sách thuế quan độc lập trong quan hệ với các nước ngoài FTA; Thì đối với CU: Các nước thành viên có biểu thuế quan chung với các nước ngoài cu.
Sự ưu đãi nội bộ đã tạo ra sự phân biệt đối xử đối với các nước ngoài FTA và cu. Tuy nhiên, sự phân biệt đối xử này được chấp nhận như một ngoại lệ của nguyên tắc không phân biệt đối xử - Điều XXIV GATT. Theo Điều XXIV GATT, khi các nước thành viên trong khu vực thành lập FTA hoặc cu, các liên kết kinh tế này sẽ có quy chế đặc biệt, theo đó các thành viên của liên kết kinh tế khu vực sẽ áp dụng cho nhau chế độ thương mại nội bộ ở mức ưu đãi hơn so với các nước ngoài liên kết kinh tế. Ngoại lệ này cũng dành cho cả trường hợp quan hệ thương mại biên giới.
Ví dụ về một số cu trên thế giới: Liên minh hải quan Nam Phi (Southern African Customs Union - SACU); Cộng đồng Kinh tế châu Âu (European Economic Community - EEC) thành lập năm 1957 - Từ năm 1968 đến trước những năm 80 của thế kỉ XX, EEC là một liên minh hải quan với chính sách thuế quan đối ngoại chung.
c) Thị trường chung (Common Market - CM)
Thị trường chung là liên kết kinh tế được đánh giá có mức độ hội nhập cao hơn so với cu. Theo đó, ở mức độ liên kết này, các nước thành viên ngoài việc cho phép tự do di chuyển hàng hóa, còn thoả thuận cho phép tự do di chuyển tư bản và sức lao động giữa các nước thành viên với nhau.
Vi dụ: EU từ năm 1993, đã thiết lập Thị trường chung châu Âu (ECM); Thị trường chung Nam Mỹ (MERCOSUR) được thành lập năm 1991 gồm: Argentina, Brazil, Uruguay, Paraguay, Venezuela, Bolivia, Chile, Colombia, Ecuador và Peru; Thị trường chung Caribe (CARICOM) được thành lập năm 1973 gồm 15 thành viên chính thức là các quốc gia có chủ quyền ở Caribe và các khu vực phụ thuộc.
d) Liên minh kinh tế và tiền tệ (Economic and Monetary Union - EMU)
Các quốc gia tham gia liên kết kinh tế khu vực, muốn đạt đến cấp độ liên minh kinh tế và tiền tệ, cần có hai giai đoạn phát triển là Liên minh kinh tế (Economic Union) và Liên minh tiền tệ (Monetary Union).
- Liên minh kinh tế
Liên minh kinh tế tiếp tục được đánh giá là cấp độ liên kết cao hơn thị trường chung, thể hiện ở việc: Ngoài yếu tố tự do di chuyển là hàng hóa, tư bản, sức lao động còn mở rộng thêm yếu tố tự do dịch chuyển cho dịch vụ giữa các nước thành viên. Bên cạnh đó, các nước thành viên cùng nhau thiết lập một bộ máy tổ chức điều hành sự phối hợp kinh tế giữa các nước (thay thế một phần chức năng quản lý kinh tế của chính phủ từng nước) nhằm tạo ra một không gian kinh tế thống nhất, cơ cấu kinh tế tối ưu, xóa bỏ dần sự chênh lệch về trình độ phát triển kinh tế giữa các nước thành viên.
Ví dụ: Liên minh kinh tế Benelex giữa Bỉ - Hà Lan - Luxembourg được thành lập năm 1944; Liên minh kinh tế Á - Âu(EAEU) chính thức hoạt động vào năm 2015 giữa các nước Armenia, Belarus, Kazakhstan, Nga, và Kyrgyzstan.
- Liên minh tiền tệ
Liên minh tiền tệ là liên kết kinh tế trong đó các nước thành viên phải phối hợp chính sách tiền tệ với nhau, cùng thực hiện một chính sách tiền tệ thống nhất và cuối cùng là sử dụng chung một đồng tiền.
Liên minh tiền tệ là hình thức rất khó thực hiện trong các liên kết kinh tế, nó có những đặc trưng riêng có sau: Hình thành đồng tiền chung thống nhất thay thế cho các đồng tiền riêng của các nước thành viên; Thống nhất chính sách lưu thông tiền tệ; xây dựng hệ thống ngân hàng chung thay cho các ngân hàng Trung ương của các nước thành viên; Xây dựng chính sách tài chính, tiền tệ, tín dụng chung đối với các nước đồng minh và các tổ chức tiền tệ quốc tế.
Ví dụ: Liên minh tiền tệ châu Âu (European Monetary Union - EMU) tại thời điểm ra đời ngày 01/01/1999 gồm 11 nước thành viên, sử dụng chung đồng tiền EURO. Các nước thành viên được sử dụng chung song song hai loại tiền EURO và tiền quốc gia trong thời gian quá độ 3 năm. Kể từ ngày 01/01/2002, đồng EURO chính thức được lưu hành trong 12 nước thành viên gồm Pháp, Đức, Áo, Bỉ, Hà Lan, Phần Lan, Hy Lạp, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Luxembourg, Ireland, Italia. Các nước quyết định đứng ngoài EMU là Anh, Đan Mạch và Thụy Điển. Tính đến tháng 01/2019, Liên minh tiền tệ châu Âu có 19 nước thành viên trong tổng số 28 nước EU. Tiêu chuẩn để các nước EU có thể tham gia và Liên minh tiền tệ châu Âu không hề dễ dàng, theo đó: Lạm phát không cao hơn 1,5% so với mức trung bình của ba thành viên có mức lạm phát thấp nhất trong EMU; Thâm hụt ngân sách không quá 3% GDP; Nợ công không quá 60% GDP; Lãi suất dài hạn không cao hơn 2% mức trung bình của ba thành viên có mức lãi suất thấp nhất; Tham gia vào Cơ chế tỉ giá hối đoái (ERM II) ít nhất hai năm mà không có biến động mạnh trượt khỏi tỉ giá trung tâm.
3. Trào lưu FTA (Free Trade Agreement) thế hệ mới
Năm 1995, WTO ra đời, đánh dấu mốc lần đầu tiên trong lịch sử có một tổ chức thương mại có quy mô toàn cầu, thiết lập và vận hành các chuẩn mực thương mại đa phương. Tuy nhiên, bên cạnh đó, các hình thức hợp tác kinh tế khu vực, lấy nền tảng là các nguyên tắc lớn của WT0, cũng đã có sự phát triển mạnh mẽ kể từ khi tổ chức này ra đời. Trong những thập niên gần đây, các cơ chế hợp tác kinh tế khu vực đang chứng tỏ vai trò ngày càng quan trọng hơn trong việc xây dựng, cũng như tăng cường quan hệ thương mại giữa các đối tác, đặc biệt sau thất bại của vòng đàm phán Doha.
Theo quan điểm của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), các Thỏa thuận thương mại khu vực (Regional Trading Agreement - RTA, đặc trưng bởi hai hình thức FTA và CU) khác với các thỏa thuận thương mại ưu đãi (Preferential Trade Agreement - PTA) ở tính chất có đi có lại. Các PTA bao gồm các ưu đãi thương mại đơn phương mà quốc gia được hưởng ưu đãi không có nghĩa vụ dành các ưu đãi tương đương theo nguyên tắc có đi có lại. Ví dụ về PTA: Quy chế ưu đãi thuế quan phổ cập GSP của các nước phát triển (như Hoa Kỳ, EU) dành cho các nước đang và kém phát triển. Trong khi đó, RTA là các thỏa thuận có đi có lại giữa hai hay nhiều nước.
Theo thống kê chính thức của WTO, các RTA bắt đàu tăng lên nhanh chóng về số lượng kể từ đầu những năm 1990. Nếu như trước khi WTO ra đời, số lượng các tổ chức khu vực trên thế giới chỉ là hàng chục, thì hiện nay con số đã là hàng trăm. Trong giai đoạn 1948 - 1994, GATT đã nhận được 124 thông báo về các RTAs (liên quan đến thương mại hàng hóa) và kể từ khi thành lập WTO vào năm 1995, đã có thông báo hơn 400 thoả thuận bổ sung về thương mại hàng hóa hoặc dịch vụ. Tính đến tháng 6/2016, tất cả các thành viên của WTO đều có một RTA đang có hiệu lực. Tính đến thời điểm ngày 03/02/2020, WTO đã nhận được 484 thông báo từ các thành viên WT0, trong đó 304 RTA đang có hiệu lực. Trong số các RTA này, FTA và thỏa thuận ưu đãi một phần (Partial Scope Agreement - PSA) chiếm đa số, liên minh hải quan chỉ chiếm tỉ lệ nhỏ (tầm 10%).
Ở phạm vi khu vực, các FTA cũng đang ngày càng tăng lên về số lượng. Năm 1975 cả châu Á chỉ có 1 FTA thì tính đến tháng 01/2020, số lượng các FTA mà các quốc gia/nền kinh tế thành viên (khu vực châu Á - Thái Bình Dương) của ADB tham gia là 265. Có thể đơn cử sự tham gia vào FTA của một số nước trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương: Việt Nam tham gia vào 26 FTA, Singpore tham gia vào 43 FTA, Thái Lan tham gia vào 37 FTA, Malaysia tham gia vào 34 FTA, Trung Quốc tham gia vào 45 FTA, Nhật Bản tham gia vào 32 FTA....
Hiện tượng một quốc gia tham gia vào nhiều FTA vừa cho phép mở rộng nhanh thị trường, vừa tháo gỡ được những khó khăn mang tính đặc thù trên từng thị trường chủ lực, từ đó tăng tốc tiến trình hội nhập khu vực và quốc tế.
Điển hình cho trào lưu liên kết kinh tế khu vực thời kì này là sự xuất hiện của các FTA thế hệ mới.
Đặc trưng của các FTA thế hệ mới:
- Neu FTA theo quan niệm truyền thống: chỉ cho phép tự do di chuyển hàng hóa; thì FTA thế hệ mới cho phép tự do di chuyển thêm nhiều các yếu tố khác với mức độ cam kết ngày càng sâu như: Đầu tư, sở hữu trí tuệ, dịch vụ, trợ cấp, mua sắm chính phủ...; Một số FTA thế hệ mới còn bao gồm cả các nội dung vốn được coi là “phi thương mại” như: lao động, môi trường, cam kết phát triển bền vững và quản trị tốt...
- Các FTA giữa các bên không có sự gần gũi về địa lý xuất hiện ngày càng nhiều. Ví dụ, FTA giữa Hoa Kỳ và Singapore.
- Phạm vi cam kết ngày càng rộng và mức độ cam kết ngày càng sâu: mức độ tự do hóa có thể vượt lên trên khuôn khổ pháp lý hiện tại. Có thể:
+ Hàm chứa các cam kết cao hon trong khuôn khổ WTO (WTO +);
+ Điều chỉnh những vấn đề không thuộc phạm vi điều chỉnh của WTO (WTO - X).
- Khác với các FTA trước đây chủ yếu ảnh hưởng tới chính sách thuế quan tại biên giới, các FTA thế hệ mới cam kết ảnh hưởng trực tiếp và lớn đến thể chế, chính sách pháp luật nội địa.
- Bên cạnh các FTA giữa các nước phát triển và đang phát triển (như giữa Hoa Kỳ - Chile, EU - Thái Lan, EU - Việt Nam, Việt Nam - Hàn Quốc...) đã xuất hiện các FTA giữa các “siêu cường thương mại”.
+ Mở đầu là thỏa thuận giữa Australia và Hoa Kỳ.
+ Tiếp đó là các hiệp định đã hoặc đang được đàm phán như EU - Nhật Bản, EU - Canada, EU - Hoa Kỳ, Nhật Bản - Australia...
Như vậy, với sự xuất hiện của trào lưu FTA thế hệ mới, quan niệm truyền thống về hội nhập kinh tế khu vực khi chia liên kết kinh tế khu vực thành các cấp độ khác nhau không còn phù hợp; mà thay vào đó là các FTA thế hệ mới với cách tiếp cận rộng và mức độ hội nhập sâu hơn rất nhiều.
Ví dụ về FTA thế hệ mới: Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ Xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), bao gồm 11 nước thành viên: Canada, Mexico, Peru, Chile, New Zealand, Australia, Nhật Bản, Singapore, Brunei, Malaysia và Việt Nam, có hiệu lực tại Việt Nam từ ngày 14/01/2019; FTA giữa Việt Nam - EU (EVFTA) khi có hiệu cũng sẽ trở thành FTA thế hệ mới điển hình mà Việt Nam tham gia kí kết.
4. Hội nhập kinh tế toàn cầu
Nếu như hợp tác kinh tế song phưong là sự hợp tác của nhóm gồm chỉ hai nước với nhau, thông qua các hiệp định kinh tế song phương được thiết lập bởi hai nước thì hội nhập kinh tế khu vực tiếp tục phát triển rộng hơn về phạm vi hội nhập, đó là giữa một nhóm các nước trong cùng khu vực hoặc liên khu vực với nhau, thông qua các hiệp định kinh tế đa phương được thiết lập bởi những tổ chức kinh tế có tính khu vực; Đen hội nhập kinh tế toàn cầu phạm vi hội nhập giữa các nước đã được mở rộng trên phạm vi toàn thế giới, thông qua các hiệp định kinh tế đa phương hoặc đa biên được thiết lập bởi những tổ chức kinh tế có tính toàn cầu.
Các tổ chức kinh tế quốc tế có tầm ảnh hưởng, chi phối toàn cầu cần phải nhắc tới như: WTO, IMF, WB hay các tổ chức kinh tế quốc tế thuộc hệ thong UN như: ủy ban Liên hợp quốc về Luật thương mại quốc tế (UNCITRAL), Hội nghị Liên hợp quốc về Thương mại và phát triển (UNCTAD)...
Ví dụ: Việt Nam nộp đơn xin gia nhập WTO từ năm 1995, sau 12 năm đàm phán, tới năm 2007 Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của tổ chức thương mại lớn nhất hành tinh này. Khi gia nhập WT0, Việt Nam được tiếp cận thị trường hàng hóa và dịch vụ ở tất cả các nước thành viên với mức thuế nhập khẩu đã được cắt giảm và các ngành dịch vụ, không bị phân biệt đối xử; Việt Nam có được vị thế bình đẳng như các thành viên khác trong việc hoạch định chính sách thương mại toàn cầu, có cơ hội để đấu tranh nhằm thiết lập một trật tự kinh tế mới công bằng hơn, hợp lý hơn, có điều kiện để bảo vệ lợi ích của đất nước, của doanh nghiệp.