Triển khai thực hiện hiệu quả đường lối đối ngoại Đại hội XIII của Đảng, công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế trong nửa nhiệm kỳ vừa qua tiếp tục được mở rộng, đạt nhiều kết quả quan trọng; tiếp tục củng cố, nâng cao vị thế và uy tín của nước ta trên trường quốc tế.
Ảnh minh họa - Internet
Đường lối đối ngoại được triển khai đồng bộ, toàn diện
Phát biểu bế mạc Hội nghị Trung ương giữa nhiệm kỳ khóa XIII, đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã đánh giá: “Hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế tiếp tục được mở rộng và đạt nhiều kết quả quan trọng; tiếp tục củng cố, nâng cao vị thế và uy tín của nước ta trên trường quốc tế”(1). Các kết quả đạt được càng có ý nghĩa trong bối cảnh tình hình chính trị, kinh tế thế giới trải qua nhiều diễn biến nhanh chóng, phức tạp, như cạnh tranh chiến lược ngày càng gay gắt, cuộc xung đột Nga - U-crai-na xảy ra đến nay vẫn chưa có hồi kết, kinh tế - xã hội toàn cầu gặp nhiều khó khăn lớn và sự bùng phát, kéo dài của đại dịch COVID-19.
Hội nghị Đối ngoại toàn quốc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng (ngày 14-12-2021) do Bộ Chính trị, Ban Bí thư tổ chức theo ý kiến chỉ đạo của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng là một sự kiện lịch sử, phương thức mới và mang ý nghĩa lâu dài, sâu sắc trong việc quán triệt và tổ chức thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng trong lĩnh vực đối ngoại. Tại Hội nghị, đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã có bài phát biểu quan trọng chỉ rõ, đối ngoại ngày nay không chỉ là sự tiếp nối của chính sách đối nội, mà còn là một động lực mạnh mẽ cho sự phát triển của quốc gia, dân tộc.
Trong bài phát biểu, đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã đúc kết truyền thống đối ngoại của dân tộc, những tư tưởng, nguyên tắc, quan điểm lớn về đối ngoại của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đồng chí Tổng Bí thư nêu rõ: “chúng ta đã xây dựng nên một trường phái đối ngoại và ngoại giao rất đặc sắc và độc đáo của thời đại Hồ Chí Minh, mang đậm bản sắc “cây tre Việt Nam””. Đó là “gốc vững, thân chắc, cành uyển chuyển”, “mềm mại, khôn khéo, nhưng rất kiên cường”. Về phương hướng, nhiệm vụ cơ bản của đối ngoại, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh, “chúng ta cần xây dựng vị thế và tâm thế mới của Việt Nam trong ứng xử và xử lý mối quan hệ với các nước song phương cũng như đa phương”. Theo đó, “phải đẩy mạnh đổi mới tư duy, mạnh dạn đột phá, sáng tạo trong công tác, tìm ra cách làm mới, mở rộng sang các lĩnh vực mới, tìm kiếm các đối tác mới, hướng đi mới,… trên cơ sở giữ vững nguyên tắc, chắc chắn, thận trọng, kiên định mục tiêu và chân thành, khiêm tốn”(2).
Những thành tựu đối ngoại đạt được trong nửa nhiệm kỳ Đại hội XIII của Đảng
Nổi bật trong thời gian qua là những kết quả đạt được trong công tác theo dõi, dự báo tình hình, tham mưu chiến lược trước đòi hỏi của những diễn biến ở khu vực và trên thế giới. Ngày 9-1-2023, Bộ Chính trị đã thông qua Nghị quyết số 34-NQ/TW, “Về một số định hướng, chủ trương lớn triển khai đường lối đối ngoại Đại hội XIII của Đảng”. Đây là Nghị quyết toàn diện đầu tiên của Bộ Chính trị về đối ngoại kể từ khi Nghị quyết số 13/NQ-TW khóa VI, “Về nhiệm vụ và chính sách đối ngoại trong tình hình mới”, được ban hành vào ngày 20-5-1988. Bên cạnh đó là các nghị quyết, chỉ thị, kết luận của Bộ Chính trị, Ban Bí thư đối với việc phát triển, nâng cấp quan hệ với một số đối tác quan trọng và nhiều lĩnh vực hoạt động quan trọng, như đối ngoại đảng đến năm 2025, ngoại giao kinh tế, bảo đảm an ninh trong hội nhập quốc tế, đối ngoại quốc phòng, công tác người Việt Nam ở nước ngoài, thông tin đối ngoại, đối ngoại nhân dân trong tình hình mới. Các cơ quan liên quan đã theo sát tình hình, kịp thời báo cáo lãnh đạo Đảng, Nhà nước để xử lý đúng những vấn đề nảy sinh trong quan hệ song phương, liên quan đến vấn đề biển, đảo, đề ra chủ trương phù hợp với những diễn biến quốc tế phức tạp, như cuộc xung đột tại U-crai-na hay những mối quan tâm quốc tế lớn, đồng thời tác động trực tiếp đến lợi ích của đất nước, như biến đổi khí hậu và các thách thức an ninh phi truyền thống khác.
Các hoạt động đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân được triển khai ngày càng đồng bộ theo hướng Bộ Chính trị đã xác định là đối ngoại đảng giữ vai trò nòng cốt trong định hướng chiến lược, chủ trương, đường lối đối ngoại, phát triển quan hệ tốt đẹp với các chính đảng, góp phần xây dựng, củng cố nền tảng chính trị, tạo thuận lợi cho quan hệ của Việt Nam với các nước, các đối tác; ngoại giao nhà nước (bao gồm cả ngoại giao nghị viện) đóng vai trò nòng cốt trong thể chế hóa, tổ chức triển khai thực hiện hiệu quả đường lối, chủ trương của Đảng; đối ngoại nhân dân đóng vai trò nòng cốt trong việc thúc đẩy quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước, xây dựng nền tảng xã hội tích cực và thuận lợi cho quan hệ của Việt Nam với các nước. Gắn kết chặt chẽ giữa đối ngoại với quốc phòng, an ninh, kinh tế, văn hóa.
Chỉ tính riêng về hoạt động đối ngoại, từ sau Đại hội XIII của Đảng đến đầu tháng 7-2023, đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã chủ trì, tham gia gần 140 cuộc tiếp xúc, điện đàm, thư và điện đối ngoại, các cuộc hội đàm trực tiếp hoặc trực tuyến, các cuộc tiếp, làm việc, dự hội nghị quốc tế với các vị lãnh đạo đảng, nhà nước, tổ chức quốc tế. Bên cạnh hoạt động đối ngoại của các đồng chí lãnh đạo chủ chốt của Đảng, Nhà nước, đồng chí Thường trực Ban Bí thư đã chủ trì, tham gia trên 50 hoạt động đối ngoại, cùng với đó là nhiều hoạt động của các đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị và Ủy viên Ban Bí thư đứng đầu các ban, cơ quan của Đảng, tổ chức chính trị - xã hội, các đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Trung ương Đảng lãnh đạo các thành ủy, tỉnh ủy trực thuộc Trung ương. Các hoạt động đối ngoại cấp cao đã đóng góp quan trọng vào tăng cường sự tin cậy chính trị, tạo đà thúc đẩy mạnh mẽ quan hệ hợp tác giữa nước ta với các đối tác, bạn bè quốc tế.
Công tác đối ngoại nhân dân tiếp tục được triển khai chủ động, tích cực, hiệu quả theo tinh thần Chỉ thị số 12-CT/TW, ngày 5-1-2022, của Ban Bí thư, “Về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, nâng cao hiệu quả đối ngoại nhân dân trong tình hình mới”. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể, tổ chức nhân dân tích cực thúc đẩy quan hệ hữu nghị, hợp tác với nhân dân các nước, góp phần củng cố, tăng cường, tạo nền tảng xã hội thuận lợi cho quan hệ đối ngoại của Việt Nam với các nước. Bên cạnh hoạt động đối ngoại cụ thể, các tổ chức đối ngoại nhân dân nỗ lực xây dựng chiến lược, kế hoạch hoạt động lâu dài, phù hợp với những thay đổi của đối ngoại nhân dân trên trường quốc tế và những nhiệm vụ mới đặt ra.
Về nhiệm vụ đẩy mạnh và làm sâu sắc hơn quan hệ song phương, Việt Nam đã chủ động, tích cực triển khai nhiều hoạt động lớn thể hiện ưu tiên hàng đầu trong quan hệ với các nước láng giềng. Cuộc gặp đầu tiên sau 30 năm giữa ba nhà lãnh đạo đứng đầu ba đảng của ba nước Việt Nam, Lào, Cam-pu-chia đã được tổ chức tại Thủ đô Hà Nội vào ngày 26-9-2021. Từ ngày 30-10-2022 đến ngày 1-11-2022, đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã tiến hành chuyến thăm chính thức Trung Quốc theo lời mời của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Trung Quốc Tập Cận Bình. Đây là chuyến thăm đầu tiên của một nhà lãnh đạo nước ngoài đến Trung Quốc sau Đại hội XX của Đảng Cộng sản Trung Quốc (16-10-2022 - 22-10-2022) - sự kiện đối ngoại đặc biệt quan trọng, đạt kết quả tốt đẹp trên nhiều phương diện. Các đồng chí Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ, Chủ tịch Quốc hội; các đồng chí lãnh đạo cấp cao của Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các nhà lãnh đạo các nước đã thực hiện nhiều chuyến thăm, gặp gỡ nhân dịp tham dự các hội nghị quốc tế và điện đàm trực tuyến. Việt Nam và các nước chú trọng nâng cao hiệu quả của các cơ chế hợp tác. Các ngành, địa phương đã nỗ lực thực hiện những thỏa thuận cấp cao, thúc đẩy hợp tác trên nhiều lĩnh vực. Theo đó, sự hiểu biết lẫn nhau và tin cậy chính trị đối với Lào, Cam-pu-chia và Trung Quốc được nâng cao; hợp tác kinh tế, văn hóa, giáo dục - đào tạo có những bước phát triển mới; hợp tác quốc phòng - an ninh phát huy vai trò là trụ cột của quan hệ. Những kết quả đó có ý nghĩa quan trọng, góp phần giữ vững hòa bình, an ninh ở khu vực láng giềng và tranh thủ thế mạnh, tiềm năng bổ sung lẫn nhau cho phát triển của mỗi nước.
Quan hệ giữa Việt Nam với các quốc gia Đông Nam Á khác được quan tâm thúc đẩy. Giữa Việt Nam và hầu hết quốc gia Đông Nam Á đều có các chuyến thăm của lãnh đạo cấp cao. Việt Nam đóng góp tích cực vào việc phục hồi đối thoại, ổn định ở Mi-an-ma, giải quyết những vấn đề nảy sinh trên cơ sở vì lợi ích lâu dài của nhân dân Mi-an-ma, các nguyên tắc của Hiến chương Liên hợp quốc và Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), vì hòa bình, ổn định ở khu vực. Quan hệ quốc phòng - an ninh tiếp tục được đẩy mạnh, mở rộng sang một số lĩnh vực mới. Các khuôn khổ hợp tác kinh tế - xã hội, văn hóa, khoa học - giáo dục đều được tăng cường và có những phát triển mới. Việt Nam tiếp tục liên kết hợp tác trong ASEAN với việc thúc đẩy quan hệ song phương với các nước Đông Nam Á. Những kết quả tích cực trong quan hệ với các nước Đông Nam Á giúp củng cố môi trường hòa bình, an ninh của đất nước, cùng với các nước ASEAN phát huy thế mạnh chung của cả nền kinh tế ASEAN đó là đứng thứ ba ở khu vực châu Á và đứng thứ năm trên thế giới.
Việt Nam tiếp tục phát triển quan hệ với các nước lớn và các đối tác quan trọng khác. Quan hệ chính trị Việt Nam - Nga không ngừng được củng cố. Trao đổi đoàn cấp cao diễn ra thường xuyên, tạo động lực mạnh mẽ cho việc phát triển quan hệ Đối tác Chiến lược Toàn diện giữa hai nước. Quan hệ với Hoa Kỳ tiếp tục đà phát triển trên tất cả lĩnh vực. Ngày 29-3-2023, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã có cuộc điện đàm cấp cao với Tổng thống Hoa Kỳ Giô Bai-đơn. Trước đó, tháng 8-2021, Phó Tổng thống Hoa Kỳ Ka-ma-la Ha-ri-xơ đã tiến hành chuyến thăm Việt Nam. Tháng 9-2023, nhân chuyến thăm cấp Nhà nước đến Việt Nam của Tổng thống Hoa Kỳ Giô Bai-đơn, lãnh đạo hai nước đã ra Tuyên bố chung về nâng cấp quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ lên Đối tác Chiến lược Toàn diện vì hòa bình, hợp tác và phát triển bền vững. Ngoài ra, lãnh đạo cấp cao hai nước đã có nhiều dịp gặp gỡ khi tham dự các hội nghị quốc tế, cũng như thực hiện các chuyến thăm, trao đổi cùng xử lý những vấn đề nảy sinh và mở rộng hợp tác.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, các đồng chí lãnh đạo chủ chốt, Thường trực Ban Bí thư đã hội đàm qua các chuyến thăm lẫn nhau với Liên minh châu Âu (EU), các nước thành viên chủ chốt của EU; các nước Ấn Độ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ô-xtrây-li-a, Niu Di-lân; các nước có thế mạnh hợp tác chuyên ngành, như Thụy Sĩ, Bỉ, Phần Lan. Ý nghĩa thực chất và hiệu quả của các quan hệ đối tác chiến lược, đối tác toàn diện và hợp tác truyền thống đều được nâng cao, qua đó tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau, nâng cao vị trí của mỗi bên trong chính sách đối ngoại và phát triển của nhau, thích ứng với quan hệ thương mại, đầu tư, khoa học - công nghệ trong tình hình mới, trong đó có các yêu cầu mới đặt ra về khẳng định vị trí của đất nước ta trong chuỗi cung ứng của các nền kinh tế lớn trên thế giới, tranh thủ những tiến bộ của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, nhất là công nghệ số.
Quan hệ của Việt Nam với các nước bạn bè, đối tác truyền thống tiếp tục phát triển tốt đẹp. Các đồng chí đứng đầu Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Cộng sản Cu-ba đã bốn lần hội đàm cấp cao trực tuyến. Đồng thời, hai nước đã triển khai các chuyến thăm của Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ và Chủ tịch Quốc hội, cũng như nhiều chuyến thăm của các đồng chí lãnh đạo cấp cao khác của Đảng, Nhà nước, hoạt động của cơ chế Ủy ban liên chính phủ, các tổ chức chính trị - xã hội, các địa phương; quan hệ hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau mở rộng trên các lĩnh vực. Quan hệ với Đảng, Nhà nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên được duy trì phù hợp với điều kiện khó khăn của đại dịch COVID-19. Việc thúc đẩy quan hệ của Đảng ta với các đảng cầm quyền, tham chính đã góp phần tăng cường quan hệ của Việt Nam với nhiều nước ở khu vực Đông Âu, Mỹ La-tinh, châu Phi.
Thực hiện chủ trương của Đại hội XIII của Đảng về nâng tầm đối ngoại đa phương, các hoạt động trong lĩnh vực này tiếp tục được triển khai tích cực, hiệu quả, thể hiện trách nhiệm quốc tế và vị thế mới, tâm thế mới của Việt Nam. Nổi bật là việc Việt Nam đã hoàn thành thắng lợi nhiệm kỳ hai năm là Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc (2020 - 2021), được bầu vào một số cơ chế quan trọng của Liên hợp quốc, như Phó Chủ tịch Đại hội đồng Liên hợp quốc, Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc và Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO); thể hiện vai trò chủ động, tích cực trong việc cùng các nước ASEAN duy trì đoàn kết, nâng cao tính tự cường, giải quyết các vấn đề phức tạp mới đặt ra, xây dựng tầm nhìn mới, phát triển quan hệ với các đối tác, nâng cao vai trò của Đại hội đồng Liên nghị viện ASEAN (AIPA); phát huy vai trò của Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC) và các cơ chế hợp tác Mê Công.
Sự tham gia thể hiện trách nhiệm cao của Việt Nam trong các nỗ lực chung của cộng đồng quốc tế về phòng, chống và ứng phó với biến đổi tiêu cực của khí hậu vì lợi ích chung và lợi ích lâu dài của đất nước, các hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc và khắc phục hậu quả động đất ở Thổ Nhĩ Kỳ (tháng 2-2023) được cộng đồng quốc tế đánh giá cao. Đảng ta cũng tham gia, đóng góp tích cực tại các cơ chế đa phương chính đảng, như Cuộc gặp quốc tế giữa các đảng cộng sản và công nhân quốc tế (IMCWP), Diễn đàn Xao Pao-lô, Hội nghị quốc tế các đảng chính trị châu Á (ICAPP) và những hội nghị quốc tế quan trọng do các đảng bạn tổ chức. Việt Nam là nước chủ nhà cùng tổ chức Đại hội lần thứ hai mươi hai của Hội đồng Hòa bình Thế giới (tháng 11-2022); các tổ chức chính trị - xã hội của Việt Nam đã tham gia nhiều hoạt động đa phương quốc tế, qua đó góp phần giới thiệu về đất nước, dân tộc, trao đổi kinh nghiệm và huy động tri thức, nguồn lực cho sự phát triển của đất nước.
Trong tổng thể hoạt động đối ngoại song phương và đa phương, Việt Nam đã cùng các nước láng giềng quản lý tốt, duy trì đường biên giới trên bộ hòa bình, hữu nghị và phát triển; kiên quyết, kiên trì bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia trên biển, nỗ lực thúc đẩy hợp tác, đàm phán phân định biển, trong đó có việc hoàn tất đàm phán phân định vùng đặc quyền kinh tế giữa Việt Nam và In-đô-nê-xi-a (tháng 12-2022). Sự phát triển tích cực trong quan hệ song phương, đa phương tạo điều kiện thuận lợi cho những nỗ lực triển khai công tác ngoại giao kinh tế để tham mưu chính sách, tranh thủ và xây dựng mới các khuôn khổ hợp tác kinh tế, thương mại, đầu tư song phương hoặc đa phương, huy động các nguồn lực quốc tế. Việt Nam đã tranh thủ sự hỗ trợ quan trọng của cộng đồng quốc tế về tri thức, kinh nghiệm, thuốc men, trang thiết bị y tế trong việc kiểm soát đại dịch COVID-19, đồng thời có những đóng góp với các nước, được cộng đồng quốc tế đánh giá cao. Trong năm 2021, tổng số vốn đầu tư đăng ký của nước ngoài đạt thêm trên 31 tỷ USD, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu đạt trên 668 tỷ USD; trong năm 2022, các con số tương ứng là trên 27 tỷ USD và trên 730 tỷ USD.
Công tác thông tin đối ngoại được triển khai tích cực, hiệu quả trong việc xây dựng chiến lược, kế hoạch tổng thể, đi cùng với những nỗ lực định hướng kịp thời, có chất lượng ngày càng tốt về thông tin, đấu tranh với những thông tin sai trái và đổi mới phương thức thông tin. Đảng, Nhà nước đã quan tâm xây dựng chủ trương, chính sách, văn bản pháp luật mới và triển khai nhiều biện pháp cụ thể với sự tham gia của nhiều địa phương, nhân dân đối với cuộc sống, nâng cao địa vị pháp lý và hội nhập của người Việt Nam ở nước ngoài vào xã hội nước sở tại, cũng như tạo điều kiện thuận lợi để họ về thăm gia đình, đất nước, sinh sống, học tập và làm ăn ở đất nước.
Cùng với những thành tựu đạt được, thực tế triển khai công tác đối ngoại cũng cho thấy hạn chế cần tiếp tục khắc phục, như bảo đảm tốt hơn sự kịp thời, khả năng phát hiện, đánh giá xu thế, diễn biến mới và kiến nghị, đề xuất trong công tác nghiên cứu, tham mưu; tranh thủ tốt hơn các quan hệ đối ngoại song phương và đa phương; đổi mới phương thức quan hệ đảng, đối ngoại nhân dân; nâng cao hiệu quả các hoạt động đối ngoại.
Nhiệm vụ trọng tâm của công tác đối ngoại trong thời gian tới
Cục diện thế giới thời gian tới tiếp tục diễn biến nhanh chóng, phức tạp, mang lại cả mặt thuận và không thuận đối với Việt Nam trong triển khai đường lối đối ngoại và hội nhập quốc tế. Về mặt thuận, xu thế lớn của hòa bình, hợp tác và phát triển tạo điều kiện khách quan thuận lợi để Việt Nam củng cố môi trường đối ngoại hòa bình, ổn định và tập trung nguồn lực cho phát triển, thúc đẩy giải quyết tranh chấp và vấn đề nảy sinh trong quan hệ quốc tế bằng các biện pháp hòa bình, phù hợp với luật pháp quốc tế. Trong cục diện thế giới đa cực, đa trung tâm đang hình thành ngày càng rõ nét, Việt Nam có điều kiện để thúc đẩy lợi ích của đất nước trong các mối quan hệ song phương và những thể chế đa phương. Bên cạnh đó, xu hướng tiến triển mạnh mẽ của liên kết kinh tế quốc tế sẽ mở ra những cơ hội mới cho các nước trong thúc đẩy hợp tác, hội nhập quốc tế, tăng trưởng kinh tế, phân công lao động quốc tế và tranh thủ sức mạnh kinh tế, khoa học - công nghệ từ bên ngoài. Với những bước nhảy vọt của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và kinh tế tri thức, các nước đang phát triển có thể tranh thủ cơ hội để bứt phá, thúc đẩy tăng trưởng nhanh, bền vững. Cùng với đó, trong thời gian tới, châu Á - Thái Bình Dương tiếp tục là khu vực phát triển năng động, động lực của kinh tế thế giới và cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, trung tâm liên kết kinh tế toàn cầu, trong đó nước ta có vị thế địa - chính trị chiến lược quan trọng và tạo lập mạng lưới quan hệ đối ngoại sâu rộng.
Tuy nhiên, về mặt không thuận, như Đại hội XIII của Đảng dự báo: “Thế giới đang trải qua những biến động to lớn, diễn biến rất nhanh chóng, phức tạp, khó dự báo. Hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, song đang đứng trước nhiều trở ngại, khó khăn; cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, xung đột cục bộ tiếp tục diễn ra dưới nhiều hình thức, phức tạp và quyết liệt hơn, làm gia tăng rủi ro đối với môi trường kinh tế, chính trị, an ninh quốc tế”(3). Đại hội cũng chỉ rõ tác động tiêu cực và khó khăn, thách thức mới đặt ra đối với các nước đang phát triển, nhất là các nước nhỏ trong bối cảnh chủ nghĩa cường quyền, chủ nghĩa dân tộc cực đoan tiếp tục diễn biến phức tạp, chủ nghĩa thực dụng trong quan hệ quốc tế gia tăng. Trong bối cảnh đó, kinh tế thế giới còn nhiều khó khăn, thách thức lớn; toàn cầu hóa bị thách thức bởi cạnh tranh nước lớn; cạnh tranh kinh tế, chiến tranh thương mại ngày càng gay gắt; hệ thống tài chính, tiền tệ, chuỗi cung ứng không ổn định, tác động bất lợi đối với nhiều quốc gia. Các vấn đề an ninh phi truyền thống, nhất là biến đổi khí hậu, an ninh mạng, tội phạm xuyên biên giới ngày càng phức tạp, có thể gây ra những biến động về kinh tế - xã hội, an ninh và phát triển của nhiều quốc gia.
Những biến động to lớn và đang trong giai đoạn quá độ trên tất cả bình diện chính trị, an ninh, kinh tế, xã hội thế giới đang đặt ra đối với Việt Nam nhiều vấn đề cần quan tâm xử lý để tranh thủ cơ hội, thuận lợi, đồng thời phòng ngừa và giảm thiểu thách thức, khó khăn.
Thứ nhất, đối với nhiệm vụ giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển, cần tiếp tục kiên định đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, nhất là các vấn đề về quan điểm và nguyên tắc, đồng thời ứng xử hài hòa, linh hoạt trước những diễn biến phức tạp của tình hình khu vực và thế giới. Đây chính là nguyên tắc và phương châm cốt lõi của trường phái “ngoại giao cây tre Việt Nam” mà đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhấn mạnh tại Hội nghị Đối ngoại toàn quốc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng. Đồng thời, cần có cách đề cập đồng bộ đối với nhiệm vụ giữ vững môi trường hòa bình, kiên quyết, kiên trì bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh quốc gia, ổn định chính trị đất nước, đẩy mạnh quan hệ song phương và nâng tầm đối ngoại đa phương. Tranh thủ nguồn lực và hợp tác quốc tế hiệu quả trong ứng phó với các thách thức an ninh phi truyền thống. Tăng cường công tác nghiên cứu, tham mưu, dự báo chiến lược, không để bị động, bất ngờ.
Thứ hai, đối với nhiệm vụ chủ động, tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, cần xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, bảo đảm an ninh quốc gia, trong đó chú ý đến các thách thức an ninh phi truyền thống. Tranh thủ toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế có những nội dung, hình thức mới và cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư cũng như quá trình sắp xếp lại, hình thành mới các chuỗi sản xuất và cung ứng toàn cầu để xác lập vị trí thích hợp của Việt Nam trong nền kinh tế thế giới, đặc biệt là trong giai đoạn sau đại dịch COVID-19. Tăng cường nhận thức về vai trò và phát triển công tác ngoại giao kinh tế theo hướng toàn diện, thực chất; xác định đây là một động lực quan trọng, tiên phong trong việc huy động các nguồn lực bên ngoài, gia tăng sức cạnh tranh và năng lực thích ứng của nền kinh tế, góp phần nâng cao sức mạnh tổng hợp quốc gia. Chủ động tham gia và phát huy vai trò của Việt Nam tại các cơ chế đa phương khu vực và quốc tế, như ASEAN, Liên hợp quốc, APEC, hợp tác Tiểu vùng sông Mê Công; trên các trụ cột đối ngoại và các lĩnh vực đối ngoại; trên các cơ chế đa phương nghị viện, đa phương chính đảng và đối ngoại nhân dân, phù hợp với yêu cầu, khả năng và điều kiện cụ thể của đất nước.
Thứ ba, đối với nhiệm vụ xây dựng nền ngoại giao toàn diện, hiện đại với ba trụ cột là đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân, cần triển khai các hoạt động đối ngoại của đất nước trong một chỉnh thể đồng bộ, bảo đảm sự lãnh đạo thống nhất, tuyệt đối của Đảng, sự quản lý tập trung của Nhà nước. Phát huy vai trò, thế mạnh đặc thù của từng trụ cột đối ngoại, chủ thể và lực lượng tham gia công tác đối ngoại, bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc. Gắn kết chặt chẽ giữa đối ngoại với quốc phòng - an ninh và tất cả lĩnh vực khác. Mở rộng và nâng cao hiệu quả ngoại giao văn hóa; làm tốt và nâng cao hiệu quả công tác lãnh sự, bảo hộ công dân; triển khai toàn diện và mạnh mẽ hơn công tác người Việt Nam ở nước ngoài. Xây dựng đội ngũ cán bộ được đào tạo bài bản, được rèn luyện về bản lĩnh chính trị, phẩm chất, năng lực đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn mới. Không ngừng đổi mới tư duy và nâng cao hiệu quả công tác thông tin đối ngoại, xác định phương châm “chủ động, kịp thời, đồng bộ, sáng tạo, hiệu quả”, góp phần nâng cao uy tín, vị thế quốc tế của Đảng và đất nước ta.
Những kết quả quan trọng của công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế trong nửa nhiệm kỳ vừa qua của Đại hội XIII thể hiện đường lối đối ngoại đúng đắn của Đảng, Nhà nước, được sự quan tâm, lãnh đạo và chỉ đạo đúng đắn, sáng suốt của các cơ quan lãnh đạo của Đảng ở các cấp. Kết quả đạt được về đối ngoại gắn liền với thực lực các mặt ngày càng gia tăng của đất nước, thành quả trực tiếp của sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, trong đó có sự tham gia, phối hợp tích cực của các cơ quan liên quan đến công tác đối ngoại. Một yếu tố đóng góp quan trọng nữa là sự ủng hộ của bạn bè, đối tác quốc tế. Những kết quả đạt được là cơ sở quan trọng để công tác đối ngoại tiếp tục góp phần tích cực vào việc thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm trong nửa cuối nhiệm kỳ khóa XIII của Đảng như Hội nghị Trung ương giữa nhiệm kỳ đã xác định, thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng./.
--------------------------
(1) Nguyễn Phú Trọng: “Phát huy những kết quả và bài học kinh nghiệm đã có; tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa công cuộc đổi mới, tranh thủ mọi thời cơ, thuận lợi; vượt qua mọi khó khăn, thách thức; quyết tâm thực hiện thắng lợi toàn diện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng”, Tạp chí Cộng sản, số 1.014, tháng 5-2023, tr. 12
(2) Nguyễn Phú Trọng: “Xây dựng và phát triển nền đối ngoại, ngoại giao Việt Nam hiện đại và mang đậm bản sắc dân tộc”, Tạp chí Cộng sản, số 980, tháng 12-2021, tr. 23
(3) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 105