Tuy nhiên, sự phát triển nhanh chóng của công nghệ truyền thông và mạng xã hội trong kỷ nguyên số đang đặt ra những yêu cầu mới cho hệ thống pháp luật về báo chí. Luật Báo chí năm 2016 – sau gần một thập kỷ thực thi – đã bộc lộ nhiều hạn chế trong việc điều chỉnh hoạt động báo chí đa nền tảng, quản lý thông tin trên không gian mạng, và bảo đảm hài hòa giữa tự do báo chí với trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân.

Ảnh minh họa - TL
Trong bối cảnh chuyển đổi số quốc gia và xu thế hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, việc sửa đổi, hoàn thiện pháp luật về báo chí không chỉ là yêu cầu khách quan của sự phát triển, mà còn là bước đi tất yếu để xây dựng một nền báo chí chuyên nghiệp – nhân văn – hiện đại, đúng định hướng, đồng thời đáp ứng yêu cầu hội nhập toàn cầu về quản trị truyền thông và quyền tiếp cận thông tin.
Sau gần 10 năm triển khai, Luật Báo chí năm 2016 đã tạo khung pháp lý tương đối toàn diện cho hoạt động báo chí Việt Nam, góp phần định hình mô hình quản lý nhà nước theo hướng minh bạch, phân cấp và trách nhiệm. Hệ thống cơ quan báo chí được sắp xếp lại theo tinh thần tinh gọn, hoạt động nghề nghiệp được chuẩn hóa hơn, và công tác cấp phép, quản lý nội dung, quảng cáo, nhân sự, kỹ thuật từng bước hiện đại hóa.
Tuy nhiên, thực tiễn phát triển truyền thông trong kỷ nguyên số cho thấy nhiều nội dung của Luật 2016 đã không còn phù hợp. Một số khái niệm, phạm vi điều chỉnh và quy định về loại hình báo chí chưa bao quát đầy đủ các dạng thức truyền thông mới như báo chí điện tử đa nền tảng, podcast, kênh video chuyên nghiệp, báo chí dữ liệu hay trí tuệ nhân tạo trong sản xuất nội dung.
Cơ chế quản lý báo chí còn thiên về hành chính, thiếu công cụ mềm và chính sách hỗ trợ phát triển. Trong khi đó, môi trường truyền thông số đòi hỏi mô hình quản lý linh hoạt hơn, dựa trên chuẩn mực minh bạch, trách nhiệm và năng lực tự điều chỉnh của tòa soạn.
Để đáp ứng yêu cầu phát triển và hội nhập, Luật Báo chí (sửa đổi) cần được xây dựng theo các định hướng lớn sau:
Thứ nhất, hoàn thiện khung pháp lý theo hướng mở, minh bạch, có khả năng bao quát các hình thức báo chí mới. Thứ hai, đổi mới phương thức quản lý nhà nước đối với báo chí theo hướng hiện đại, ứng dụng công nghệ số trong giám sát và phân tích dữ liệu truyền thông. Thứ ba, hoàn thiện quy định về bảo đảm quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận và quyền tiếp cận thông tin của công dân. Thứ tư, thiết lập cơ chế pháp lý cho chuyển đổi số trong hoạt động báo chí, bao gồm quyền sở hữu trí tuệ đối với nội dung số, bảo vệ dữ liệu cá nhân, lưu trữ điện tử, quảng cáo số và thương mại hóa sản phẩm báo chí. Thứ năm, hoàn thiện cơ chế bảo vệ nhà báo và cơ quan báo chí trong tác nghiệp, nhất là trước các hành vi xâm phạm, đe dọa, bóp méo thông tin hoặc tấn công mạng.
Từ góc độ học thuật, việc hoàn thiện Luật Báo chí cũng phải tiếp cận theo mô hình quản trị truyền thông hiện đại – trong đó Nhà nước không chỉ là cơ quan quản lý, mà còn là đối tác chính sách, cùng với giới báo chí và xã hội xây dựng môi trường thông tin minh bạch, nhân văn và có trách nhiệm.
Hoàn thiện pháp luật về báo chí trong bối cảnh chuyển đổi số và hội nhập quốc tế là yêu cầu khách quan, cấp thiết và có ý nghĩa chiến lược đối với sự phát triển của nền báo chí Việt Nam.
Tài liệu tham khảo:
1. Luật Báo chí năm 2016 – Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam, khóa XIII.
2. Nghị quyết số 81/NQ-CP ngày 3/6/2024 của Chính phủ.
3. Đề cương định hướng sửa đổi Luật Báo chí (Bộ Thông tin và Truyền thông, 2025).
4. UNESCO (2023): “Media Development Indicators in the Digital Era”.
5. PGS.TS Nguyễn Thị Trường Giang (2024), “Hoàn thiện pháp luật về báo chí trong bối cảnh chuyển đổi số”.



