Gia đình bà Đồng Thị Vân tại thôn Nam Sơn, xã Kỳ Trung (huyện Kỳ Anh) đã có kinh nghiệm nhiều năm trồng chè nguyên liệu, áp dụng SX VietGAP cho hiệu quả kinh tê cao
Là địa phương có nhiều tiềm năng phát triển cây chè, trong những năm qua cây chè được xác định là cây trồng chủ lực của huyện Kỳ Anh (Hà Tĩnh) là cây trồng mang lại thu nhập ổn định cho nhiều hộ dân vùng thượng của huyện. Tại xã Kỳ Trung, bên cạnh việc mở rộng diện tích trồng chè, việc phát triển các mô hình chè VietGAP đang được các nhà quản lý, người tiêu dùng và người trồng đặc biệt quan tâm và đây được xem là hướng đi đúng của người trồng chè hiện nay.
Tăng hiệu quả kinh tế từ 15 - 20% so với trồng chè đại trà
Gia đình bà Đồng Thị Vân tại thôn Nam Sơn, xã Kỳ Trung (huyện Kỳ Anh) đã có kinh nghiệm nhiều năm trồng chè nguyên liệu. Với diện tích chè gần 1ha, gia đình bà đã đầu tư cải tạo, trồng mới bằng giống chè PH1, cùng với việc chuyển đổi chăm sóc chè theo hướng VietGAP nên sản lượng chè tăng lên đáng kể.
“Việc chăm sóc chè theo hướng VietGAP mặc dù có tốn nhiều công sức hơn nhưng thu hoạch được lượng búp chè nhiều hơn từ 10 - 15%. Sau đợt thu hoạch lứa đầu tiên, thời điểm này gia đình tôi đang tập trung chăm sóc, làm cỏ, bón phân để chè kịp ra lứa tiếp theo cho năng suất cao hơn nữa, bà Vân cho biết".
Tổ hợp tác sản xuất chè VietGAP Nam Sơn (xã Kỳ Trung) ra đời với 41 thành viên.
Trước đây, gia đình chị Dương Thị Thanh tại xã Kỳ Trung bỏ hoang gần 1ha đất vườn do chưa tìm ra được cây trồng thích hợp. Sau khi thấy cây chè cho thu nhập cao và ổn định, năm 2009, chị đã quyết định cải tạo đất và trồng chè. Đến nay, gia đình chị đã có 0,7ha chè cho sản phẩm và 0,3ha chè trồng mới.
Xác định chè là cây trồng chính trong phát triển kinh tế, gia đình chị Thanh đã tập trung đầu tư thâm canh bằng các giống năng suất, chất lượng cao, thay thế dần những giống chè già cỗi năng suất thấp và thực hiện việc sản xuất theo đúng quy trình VietGAP, hạn chế sử dụng thuốc bảo vệ thực vật, từ đó tạo ra sản phẩm chè an toàn.
Gia đình chị chủ động nguồn phân chuồng ủ hoai mục bón cho cây chè bằng cách chăn nuôi thêm bò và gà. Ngoài ra, chị đầu tư hệ thống tưới nhỏ giọt nên dù thời tiết khắc nghiệt nhưng nguồn nước tưới cho cây chè vẫn đảm bảo. Nhờ đó, toàn bộ diện tích chè của gia đình chị phát triển tốt, cho nhiều búp, năng suất 13 - 15 tấn/ha, với giá bán bình quân từ 7 nghìn đồng/kg, mỗi năm chị thu nhập hơn 100 trăm triệu đồng.
Nhằm liên kết sản xuất tạo ra sản phẩm chè an toàn, Tổ hợp tác sản xuất chè VietGAP Nam Sơn (xã Kỳ Trung) ra đời với 41 thành viên. Mỗi năm THT cung cấp cho Xí nghiệp chè 12/9 gần 320 tấn chè búp tươi. Thông qua sản xuất chè VietGAP, người dân đã biết cách ghi chép nhật ký từ khâu làm đất, ươm giống, bón phân đến thu hái; phun thuốc bảo vệ thực vật đúng liều lượng, đảm bảo thời gian cách ly theo quy định... Từ đó giúp cây chè sinh trưởng, phát triển tốt, ít sâu bệnh, đặc biệt chi phí sản xuất giảm, giá trị sản phẩm được nâng lên. Hiện nay giá chè tươi đang tăng, dao động từ 7.500 - 7.600đ/kg nên người dân rất phấn khởi, chuẩn bị thu hoạch lứa thứ 2 để cung cấp cho Xí nghiệp chè 12/9.
“Sản xuất chè VietGAP không chỉ đem lại nguồn thu nhập khá cho các hộ mà còn góp phần tạo tính đoàn kết, tương trợ, giúp đỡ nhau trong khó khăn giữa các thành viên, cùng nhau chia sẻ kinh nghiệm trồng, chăm sóc, chế biến chè nhằm đưa các sản phẩm đến với người tiêu dùng ngày càng chất lượng”, anh Trần Công Quý, Tổ trưởng Tổ hợp tác sản xuất chè VietGAP Nam Sơn chia sẻ.
Việc trồng và chăm sóc chè theo tiêu chuẩn VietGAP giúp tăng hiệu quả kinh tế của các hộ dân tham gia mô hình từ 15 - 20% so với trồng chè đại trà, giảm số lần phun thuốc từ 2 - 3 lần, góp phần hạn chế ô nhiễm môi trường, bảo vệ sức khoẻ cộng đồng, giữ cân bằng hệ sinh thái.
Ông Lê Đình Dũng, Phó Chủ tịch UBND xã Kỳ Trung cho biết: Kỳ Trung là xã miền núi có điều kiện tự nhiên khá thuận lợi cho sự phát triển của cây công nghiệp, cây ăn quả và chăn nuôi gia súc, gia cầm. Xác định chè nguyên liệu là cây trồng chủ lực, vừa tạo việc làm, vừa nâng cao thu nhập cho bà con nông dân, địa phương đã có các chính sách hỗ trợ trồng, tập huấn ứng dụng khoa học kỹ thuật, xây dựng các vườn ươm cây giống, liên kết với Công ty Cổ phần chè Hà Tĩnh bao tiêu toàn bộ sản phẩm chè búp tươi cho bà con nông dân. Ngoài ra còn đưa các giống chè PH1, LDP1 là những giống năng suất cao, chất lượng tốt vào trồng đại trà.
"Hiện nay, xã Kỳ Trung phát triển được gần 160ha chè nguyên liệu, trong đó hơn 130ha đã cho thu hoạch, với 80% hộ gia đình tham gia trồng chè. Nguồn thu từ cây chè mỗi năm hơn 10 tỷ đồng, chiếm trên 60% tổng giá trị sản xuất của toàn xã. Đặc biệt, đã xây dựng được chuỗi liên kết từ sản xuất đến chế biến, kinh doanh; nâng cao được kiến thức quản lý an toàn thực phẩm cho cán bộ quản lý, người trồng chè, qua đó đảm bảo an toàn thực phẩm trong sản xuất, kinh doanh chè. Năng suất chè bình quân mỗi năm đạt 13 - 15 tấn/ha, sản lượng ước đạt khoảng hơn 1.700 tấn chè búp tươi" ông Dũng cho biết thêm.
Sản xuất VietGAP năng suất chè tăng 6-7%
Phát triển vùng nguyên liệu chè bền vững, có liên kết đã làm thay đổi nhận thức của người dân về phương thức sản xuất theo chuỗi giá trị, sản xuất gắn với thị trường. Ngoài ra, việc ứng dụng các quy trình sản xuất, bảo quản, chế biến sau thu hoạch đã góp phần thúc đẩy các vùng sản xuất chè quy mô và bền vững.
Xí nghiệp chè 12/9 (thuộc Công ty Cổ phần chè Hà Tĩnh) đã thường xuyên cử cán bộ kỹ thuật kiểm tra tình hình phát triển của diện tích chè ở các hộ dân, qua đó hướng dẫn cụ thể cho người dân thời điểm và kỹ thuật thu hái để búp chè đạt chất lượng cao nhất nhằm nâng cao chất lượng, sản lượng và tính cạnh tranh thông qua sản xuất theo chuỗi giá trị, đảm bảo an toàn theo tiêu chuẩn VietGAP.
Ông Nguyễn Đức Thiện, Phó Giám đốc Xí nghiệp chè 12/9 cho biết: Mỗi năm Xí nghiệp liên kết, bao tiêu sản phẩm chè búp cho 250ha chè kinh doanh của hơn 500 hộ dân các xã Kỳ Sơn, Kỳ Thượng, Kỳ Tây, Kỳ Trung (huyện Kỳ Anh) với gần 3.000 tấn chè nguyên liệu. Để thu mua hết sản phẩm chè búp tươi cho người dân, Xí nghiệp đã tổ chức chế biến chè búp với công suất 15 tấn mỗi ngày.
"Xí nghiệp luôn yêu cầu nông dân cẩn thận trong các khâu sản xuất, bảo quản, giữ vững cam kết hai bên về sản xuất và tiêu thụ sản phẩm theo hướng ưu tiên chất lượng. Ngoài ra, Xí nghiệp còn hỗ trợ người dân 110.000đ/tấn phân chuồng nhằm từng bước sản xuất chè theo hướng hữu cơ", ông Thiện cho biết thêm.
Trong quá trình hỗ trợ kỹ thuật cho các hộ dân trong hoạt động sản xuất của Tổ hợp tác sản xuất chè VietGAP Nam Sơn, bà Đặng Thị Thuận, Phó Trưởng phòng Chuyển giao Khoa học kỹ thuật (Trung tâm Khuyến nông Hà Tĩnh) cho biết: “Trồng chè theo tiêu chuẩn VietGAP không chỉ tăng hiệu quả kinh tế mà còn nâng cao ý thức của người dân về việc sản xuất sản phẩm chè an toàn. Việc đầu tư thâm canh đúng quy trình và áp dụng đồng bộ các giải pháp đã giúp cây chè sinh trưởng phát triển tốt, nâng cao năng suất, chất lượng, ít bị sâu bệnh gây hại, năng suất cây chè tăng từ 6 - 7% so với sản xuất chè truyền thống”.
Qua đánh giá hoạt động của Tổ hợp tác sản xuất chè VietGAP Nam Sơn, ông Vũ Phạm Xuân Anh, chuyên gia đánh giá của Tổ chức chứng nhận FAO (Công ty Cổ phần Chứng nhận và Kiểm nghiệm FAO) cho biết: “Đến nay, các hộ dân đã nắm chắc quy trình sản xuất chè theo tiêu chuẩn VietGAP, cây chè phát triển tốt, cho năng suất, chất lượng cao. Đây là vùng chè an toàn đối với người sử dụng. Chúng tôi đang tiến hành lấy mẫu đất, nước, sản phẩm để phân tích, đánh giá và cấp chứng nhận đạt tiêu chuẩn VietGAP cho Tổ hợp tác”.
ThS Nguyễn Hữu Ngọc