20/12/2024 lúc 08:39 (GMT+7)
Breaking News

"Giữ lửa" cho đổi mới giáo dục - đào tạo

(VNHN) - Với Nghị quyết 29-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI, giáo dục Việt Nam đã bắt được bệnh, đã kê được thuốc. Nhưng để đo xem độ tiến triển, độ “khỏe” lên của một nền giáo dục phải có sự đánh giá, nhìn nhận thấu đáo để vững tin, kiên tâm và cầu thị điều chỉnh, gỡ “nút thắt”, tháo “điểm nghẽn”.

(VNHN) - Với Nghị quyết 29-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI, giáo dục Việt Nam đã bắt được bệnh, đã kê được thuốc. Nhưng để đo xem độ tiến triển, độ “khỏe” lên của một nền giáo dục phải có sự đánh giá, nhìn nhận thấu đáo để vững tin, kiên tâm và cầu thị điều chỉnh, gỡ “nút thắt”, tháo “điểm nghẽn”.

“ĐO” KẾT QUẢ

Nghị quyết 29-NQ/TW về “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế” ban hành ngày 4-11-2013. Ngay sau khi Nghị quyết 29 ban hành, Chính phủ đã cụ thể hóa thành các Chương trình hành động triển khai. Sau 5 năm, việc đánh giá thực hiện Nghị quyết 29 được xác định trọng tâm là bám sát 6 mục tiêu và 9 nhiệm vụ giải pháp mà Nghị quyết đã nêu ra để “đo” những kết quả của đổi mới, đánh giá những thành công và hạn chế, những rào cản và vấn đề đặt ra trong việc tiếp tục triển khai Nghị quyết.

Với tinh thần đó, thời gian qua, Ban Chỉ đạo Đề án Sơ kết 5 năm Nghị quyết 29 đã tiến hành khảo sát 13 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, 13 cơ sở giáo dục và đào tạo và một số bộ, ngành. Theo kết quả khảo sát, nhìn chung, Nghị quyết 29 đã đi vào thực tế, lan tỏa tốt, tạo ra nhiều chuyển biến trong đổi mới giáo dục - đào tạo. Công tác lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước đối với đổi mới giáo dục và đào tạo ở các địa phương đã được quan tâm hơn. 6 mục tiêu và 9 nhiệm vụ, giải pháp mà Nghị quyết 29 đề ra đã được triển khai ở các cấp độ khác nhau. Trong thực tiễn đã có nhiều mô hình, sáng kiến, điển hình trong triển khai đổi mới giáo dục và đào tạo. Tuy nhiên, một số cấp ủy vẫn còn lúng túng, trong lãnh đạo, chỉ đạo chưa thực sự cụ thể và sát với tình hình địa phương, đơn vị. Chất lượng giáo dục toàn diện chuyển biến chưa mạnh, vẫn còn chênh lệch giữa các vùng, miền.Nhiều vấn đề thực tiễn đặt ra vẫn cần được đánh giá, nhìn nhận để tiếp tục tháo gỡ, triển khai. Công tác đôn đốc, hướng dẫn, kiểm tra, giám sát, đánh giá, sơ kết, tổng kết việc thực hiện Nghị quyết 29 của một số cấp ủy Đảng, chính quyền có lúc, có nơi chưa được thường xuyên.

Trong khuôn khổ các nghiên cứu khoa học của Đại học Quốc gia Hà Nội về 9 nhóm nhiệm vụ cơ bản của Nghị quyết 29, các nghiên cứu đã tổng kết lý luận và thực tiễn, khảo sát hơn 2.500 cán bộ quản lý giáo dục và giáo viên từ cơ sở giáo dục mầm non đến cơ sở giáo dục đại học; trao đổi, phỏng vấn trên 200 cán bộ lãnh đạo, quản lý và chuyên gia của các cơ quan trung ương, cơ quan bộ, ngành; phỏng vấn gần 1.000 học sinh và sinh viên, 500 cha mẹ học sinh. Nhóm nghiên cứu cũng tập hợp các cơ sở dữ liệu từ các bộ, ngành và các cơ quan trong khoảng thời gian 5 năm, khảo sát, làm rõ, và đánh giá những thay đổi, chuyển biến của nền giáo dục dưới tác động của Nghị quyết 29. Trong số 15 chuyên đề triển khai, hiện nay đã nghiệm thu 3 chuyên đề: Những đổi mới về tự chủ đại học; Đổi mới về thi và kiểm tra, đánh giá giáo dục; Đổi mới trong giáo dục phổ thông.

Theo Báo cáo Tăng trưởng thông minh hơn - Học tập và Phát triển công bằng ở Đông Á - Thái Bình Dương được Ngân hàng Thế giới (WB) công bố ngày 15-3-2018, cùng với Trung Quốc, Việt Nam được đánh giá là một trong những quốc gia có sự phát triển thực sự ấn tượng trong đổi mới giáo dục. WB cho rằng, Việt Nam đang hội tụ đủ 5 thành tố đóng góp vào kết quả giáo dục là: 1) Đồng bộ về thể chế để bảo đảm các điều kiện học tập cơ bản được cung cấp tại tất cả các trường học; 2) Tập trung chi tiêu công hiệu quả và công bằng cho giáo dục cơ bản, chuyển tiếp nguồn lực đến các trường học và địa phương đang bị tụt hậu; 3) Tuyển chọn và hỗ trợ giáo viên trong suốt quá trình giảng dạy để giúp họ yên tâm đứng lớp; nâng cao tính chọn lọc đội ngũ giáo viên… 4) Bảo đảm trẻ sẵn sàng học tập khi đến trường, tập trung phát triển thể chất và nhận thức lúc trẻ chào đời; cải thiện chất lượng mầm non và các dịch vụ phát triển… 5) Đánh giá học sinh để xác định vấn đề và cải thiện hoạt động dạy học…

Từ những kết quả nghiên cứu cho thấy, Nghị quyết 29 đang đi vào cuộc sống, tạo ra sự chuyển động lớn cả về nhận thức xã hội cho đến triển khai thực hiện. Cấp ủy Đảng và chính quyền, những người làm giáo dục, đến học sinh, sinh viên, người dân… đều quan tâm đặc biệt đến đổi mới giáo dục. Việc thể chế hóa nghị quyết, các văn bản, chính sách, pháp luật từng bước được hoàn thiện dần như xây dựng các chương trình hành động, sửa Luật Giáo dục và Luật Giáo dục đại học… Nhiều vấn đề về chương trình, sách giáo khoa, thi cử, xây dựng đội ngũ giáo viên, khả năng quản trị giáo dục… đang từng bước khẳng định hướng đi đổi mới căn bản, toàn diện.

GỠ “NÚT THẮT”

Tuy nhiên, những thách thức, những vấn đề đặt ra trong đổi mới giáo dục - đào tạo vẫn khiến dư luận, xã hội chưa có sự thống nhất về đánh giá.Còn những góc nhìn và quan điểm khác nhau, chưa có sự đồng thuận, có người nhìn thấy chuyển động tích cực, có người lại bất mãn, không hài lòng và thiếu niềm tin. Do đâu mà đổi mới trong giáo dục - đào tạo lại có nhiều góc nhìn đa chiều và nhiều “nút thắt” như vậy? Nhìn nhận ra sao trong đánh giá sơ kết 5 năm để tháo những “nút thắt”, gỡ những “điểm nghẽn”, khơi thông con đường mà Nghị quyết 29 đã vạch ra.

Các chuyên gia cho rằng, “nút thắt” hiện nay vẫn xoay quanh chương trình và sách giáo khoa, chuẩn hóa đội ngũ nhà giáo, đầu tư cơ sở vật chất, cơ chế tài chính, đổi mới trong tổ chức và quản lý, kiểm tra đánh giá và thi cử. Chiếu theo các mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp của Nghị quyết 29 thì phân luồng còn hạn chế, sự tham gia của doanh nghiệp đối với cơ sở giáo dụcnghề nghiệp còn ít; đào tạo lại chưa được chú trọng, quản lý giáo dục còn nhiều lúng túng, xã hội hóa trong giáo dục, các vấn đề bức xúc của xã hội như thi cử, sách giáo khoa, chất lượng giáo viên… vẫn còn nhiều băn khoăn. Hiện nay, điều kiện rất quan trọng để triển khai chương trình mới là đội ngũ giáo viên và cơ sở vật chất trường lớp. Việc chuyển từ chú trọng truyền thụ kiến thức sang phát triển phẩm chất, năng lực người học yêu cầu đội ngũ giáo viên cũng phải chuyển mình, nâng chất. Nếu giáo viên không được bồi dưỡng kiến thức, không được chuẩn bị sẵn sàng về tâm thế thì chương trình có tốt đến đâu cũng sẽ khó thành công. Trong bối cảnh tinh giản bộ máy, tinh gọn đội ngũ giáo viên là yêu cầu đặt ra gay gắt thì thực tiễn địa phương lại có nơi thừa, nơi thiếu. Giải quyết bài toán này lại đang “vướng” giữa các chính sách và chưa có sự đồng bộ giữa các bộ với nhau.

Khi thực hiện Nghị quyết 29, tự chủ đại học trở thành nhu cầu tự thân của trường đại học, tự chủ được xem là chìa khóa nâng cao chất lượng đào tạo và chất lượng đầu ra. TS. Nguyễn Xuân Huy, Viện trưởng Viện đảm bảo chất lượng, Đại học Quốc gia Hà Nội cho rằng, cơ sở pháp lý về tự chủ đại học còn thiếu đồng bộ, chồng chéo, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật còn có những quy định chưa phù hợp, vai trò kiểm soát của Nhà nước và các cơ quan quản lý vẫn rất lớn, cơ chế tài chính chưachuyển đổi kịp thời so với yêu cầu thực tiễn…

Sản phẩm đầu ra của đổi mới giáo dục - đào tạo là nguồn nhân lực. Hiện nay, nguồn nhân lực đang từng bước được nâng lên nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển trong giai đoạn mới, nhất là yêu cầu phát triển các ngành kinh tế mũi nhọn, tăng năng suất lao động, nâng cao năng lực đổi mới sáng tạo, đáp ứng yêu cầu cạnh tranh thị trường lao động khu vực và quốc tế. Với quan điểm, mục tiêu của Nghị quyết 29, nâng cao dân trí - đào tạo nhân lực - bồi dưỡng nhân tài cuối cùng cũng phải đạt đến mục tiêu cao nhất là sự phát triển năng lực và hoàn thiện nhân cách.Đó mới là mục tiêu thực chất nhất, là đích đến trong sản phẩm giáo dục, là thước đo thành công của đổi mới.

GIỮ NIỀM TIN

Một nhà triết học nói: Sau thực phẩm, giáo dục - đào tạo là thức ăn tinh thần hàng đầu của mỗi dân tộc. Sự quan tâm tới giáo dục luôn được phổ rộng đến từng gia đình, mỗi người dân.Điều đó tạo ra sức ép song cũng là cơ hội để tranh thủ sự ủng hộ, đồng thuận xã hội trong đổi mới giáo dục - đào tạo.

Để thành công trên con đường đổi mới, niềm tin chính là động lực, điểm tựa, niềm tin cũng là thước đo sức thuyết phục của thành quả đổi mới. Đó là niềm tin của xã hội mà trước hết là niềm tin của những người làm giáo dục, những người đang tham gia vào đổi mới. Xây dựng niềm tin, cần kiên trì thực hiện đổi mới những vấn đề lớn, cốt lõi, cấp thiết, từ quan điểm, tưtưởng chỉ đạo đến mục tiêu, nội dung, phương pháp, cơ chế, chính sách, điều kiện bảo đảm thực hiện; đổi mới từ sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đến hoạt động quản trị của các cơ sở giáo dục-đào tạo và việc tham gia của gia đình, cộng đồng, xã hội và bản thân người học; đổi mới ở tất cả các bậc học, ngành học như Nghị quyết đã đề ra.

Xây dựng niềm tin cần có sự vào cuộc đồng bộ của các cấp, các ngành và sự đồng thuận của xã hội. Muốn vậy, thông tin cần minh bạch, rõ ràng, được kiểm soát để các thông điệp hỗ trợ cho nhau chứ không trái ngược, gây hoang mang, xáo trộn không cần thiết. Do vậy, truyền thông giáo dục cũng cần đa dạng và tích cực để theo kịp nhu cầu và các kênh tiếp cận thông tin của phụ huynh học sinh./.

TS. NGUYỄN THỊ KIM CHI, Giám đốc Sở Giáo dục - Đào tạo tỉnh Nghệ An:

Nghị quyết 29 ra đời đã đưa giáo dục - đào tạo đi sát hơn đến với người dân, sát hơn với cuộc sống. Trong phạm vi giáo dục phổ thông, 5 năm qua, Nghệ An có nhiều sự thay đổi sau những nỗ lực đổi mới theo Nghị quyết 29. Đó là, phát triển phẩm chất, năng lực học sinh chuyển đổi từ truyền thụ kiến thức, đánh giá điểm số sang việc rèn luyện về tư duy, định hình kỹ năng, phát triển tố chất, năng lực của học sinh. Rất rõ ở Nghệ An là các kỳ thi Học sinh giỏi được thay đổi về hình thức thi. Trước đây thi ở các cấp, giờ chuyển sang những sân chơi trí tuệ, học sinh hào hứng tham gia tùy theo năng lực, sở trường. Với giáo viên, đó là thay đổi về sáng kiến, kinh nghiệm, nhu cầu tự học như một nhu cầu tự thân và mỗi giáo viên là một tấm gương về tự học. Nội dung chương trình học ngoại khóa và các bài học gắn với thực tiễn. Về định hướng nghề nghiệp, Nghệ An vốn là đất học, nặng về khoa cử, học để làm quan, trước đây tốt nghiệp phổ thông, 90% là các em thi vào đại học. Mấy năm qua đã có sự thay đổi, tỷ lệ này nay chỉ còn 60%, còn lại các em chọn con đường học nghề. Điều đó cho thấy từ nhận thức đến hành động của học sinh và các gia đình đã có nhiều thay đổi theo hướng thực học, thực nghiệp.

PGS. TS. ĐẶNG THANH HUYỀN, Trường Quản lý Giáo dục, Đại học Quốc gia Hà Nội, (Trưởng nhóm xây dựng chuẩn nghề nghiệp giáo viên và chuẩn Hiệu trưởng trường phổ thông): Trong 5 năm qua, có nhiều thành tựu đạt được trong đổi mới giáo dục nhưng chưa thỏa mãn người làm giáo dục và xã hội. Làm thế nào để học tập gắn với cuộc sống, phát triển năng lực người học theo hướng thực học, thực nghiệp, làm thế nào để chuyển đổi sang tự chủ như là chìa khóa thành công của đổi mới? Làm thế nào để chương trình có thể vận hành tốt và hiệu quả… Muốn đổi mới, yêu cầu giáo viên phải năng động hơn, chủ động hơn.Nhưng chuẩn nào để đánh giá giáo viên? Không có chuẩn làm điểm tựa thì sẽ dẫn đến sự phân hóa theo nhiều hướng. Việc xây dựng chuẩn giáo viên cũng là phù hợp với xu thế của thế giới.Thời gian qua, chúng tôi đã và đang xây dựng chuẩn nghề nghiệp giáo viên và chuẩn hiệu trưởng trường phổ thông.Xuất phát từ Nghị quyết 29 mà có bộ chuẩn này. So với chuẩn cũ trước đây nặng về chấp hành, thực thi nhiệm vụ thì chuẩn mới đánh giá theo năng lực, là căn cứ để bồi dưỡng, phát triển giáo viên liên tục, ngoài ra còn là tự học, tự soi, tự sửa. Mặc dù còn phải tiếp tục bổ sung, hoàn thiện nhưng quan trọng nhất là bước đầu đã tạo ra sự tự chủ, thiết lập mạng lưới chia sẻ về tri thức và có cơ sở cho đánh giá chất lượng đội ngũ giáo viên…

GS. TSKH. VŨ MINH GIANG, Phó Giám đốc Đại học Quốc gia Hà Nội:

Tôi thấy so với 5 năm trước đây, chúng ta nói chuyện về giáo dục đã rất khác rồi, tự tin hơn nhiều khi nói về: nền giáo dục mở, thực học thực nghiệp, đổi mới theo hướng linh hoạt, liên thông… Nghị quyết 29 có một quan điểm chủ chốt là: “Chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học”, thời gian qua, tất cả xoay quanh cụm từ cơ bản đó. Trước khi có Nghị quyết 29, giáo dục không biết đích đến là đâu nên chạy theo thực tế phát sinh, có cái ngược quy luật, dẫn đến các hiện tượng như: đổ xô vào đại học, học nhiều nhưng biết ít, khả năng thích ứng kém, niềm tin giảm sút, rất hoang mang. Nghị quyết 29 ra đời đã có sự chuyển biến, mặc dù, để đánh giá hiệu quả thì cũng cần có thời gian, cần có quá trình, phải dựa vào kết quả thì mới tạo được niềm tin cho xã hội. Theo tôi, có chuyển động mạnh ở các mặt: 1) Cách tổ chức xây dựng chương trình có chỉ đạo mạnh từ tiếp cận nội dung sang tiếp cận năng lực, chuyển động đó rất khả quan; 2) Việc triển khai viết sách giáo khoa cũng được chuyển đổi mạnh theo hướng thiết kế cho người học thích; 3) Đổi mới đánh giá, kiểm tra là một cố gắng lớn). 4) Tự chủ là một đòn bẩy rất mạnh cũng đang từng bước được thiết lập. Trong đổi mới, có khi vấp cái mới với cái cũ, có khi phải sống chung với “gạch, đá” như một phần của xã hội hiện đại, đòi hỏi người làm giáo dục phải kiên tâm, kiên trì, xác định đổi mới là quá trình liên tục, không ngừng, có trọng điểm theo từng giai đoạn, nhất là phải vượt qua những rào cản trong tư duy quản lý giáo dục.

Thu Thanh/TG