27/11/2024 lúc 14:40 (GMT+7)
Breaking News

Đôi điều suy ngẫm về "văn hóa ngoại giao Việt Nam"

Vận dụng lời chỉ dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Văn hóa soi đường cho quốc dân đi”, có thể tin tưởng rằng, văn hóa ngoại giao sẽ soi đường cho ngoại giao Việt Nam không ngừng tiến bước, góp phần to lớn hơn nữa vào công cuộc hiện đại hóa đất nước, đưa Việt Nam lên đài quang vinh, sánh vai cùng bè bạn năm châu như Bác Hồ hằng mong ước./.

Hội nghị đối ngoại toàn quốc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII (ngày 14-12-2021) của Đảng được xem là sự kiện mang tính lịch sử, khi lần đầu tiên Bộ Chính trị, Ban Bí thư Trung ương Đảng triệu tập một cuộc họp toàn quốc về chủ đề quan trọng này. Nhân dịp hội nghị, xin chia sẻ đôi điều suy ngẫm về “văn hóa ngoại giao Việt Nam” theo nghĩa minh triết ứng xử của người Việt Nam trong mối quan hệ bang giao với thế giới bên ngoài.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và Tổng thống V.Putin tại Sochi, tháng 9/2018. Ảnh: TTXVN

Theo Từ điển Bách khoa toàn thư Britanica (Anh), ngoại giao là “khoa học và nghệ thuật điều hành quan hệ quốc tế”. Định nghĩa này cho thấy, bản thân hoạt động ngoại giao đã hàm chứa nội hàm văn hóa.

Trải qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, ông cha ta đã vun đắp nên nền văn hiến huy hoàng, trong đó có văn hóa ngoại giao độc đáo. Tư tưởng Hồ Chí Minh về ngoại giao là sự kết tinh và phát triển những giá trị vô giá được hội tụ qua các thời đại Lý, Trần, Lê... Không phải ngẫu nhiên mà Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên hợp quốc (UNESCO) vinh danh Chủ tịch Hồ Chí Minh là “Anh hùng giải phóng dân tộc và Nhà văn hóa kiệt xuất của Việt Nam”.

Nội hàm “văn hóa ngoại giao” khá rộng, đòi hỏi sự nghiên cứu sâu sắc, tuy nhiên, có thể nhìn nhận theo bốn nhóm đặc trưng sau:

Một là, trên thế giới hiếm có dân tộc nào như dân tộc Việt Nam, phải đổ biết bao xương máu, công sức để gìn giữ giang sơn, đất nước trước các cuộc xâm lăng của những thế lực ngoại xâm mạnh hơn gấp nhiều lần. Tinh thần “không có gì quý hơn độc lập, tự do” đã góp phần hun đúc nên lòng yêu nước nồng nàn, ý chí kiên cường, bất khuất, bảo vệ bằng được chủ quyền quốc gia, quyền độc lập, tự do của dân tộc. Những câu thơ hào sảng trong bài thơ thần “Nam quốc sơn hà” của Lý Thường Kiệt đã thể hiện mạnh mẽ tinh thần tự tôn, ý chí kiên cường của một dân tộc độc lập: “Nam quốc sơn hà, Nam đế cư/ Tiệt nhiên định phận tại thiên thư/ Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm/ Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư”(1). Trong “Hịch tướng sĩ”, Hưng Đạo Vương Trần Hưng Đạo đã trút hết tâm can thề rằng: “Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa” cũng nguyện sẵn sàng chiến đấu đến cùng trước giặc Nguyên Mông xâm lược nước Nam. Tại lễ “thệ sư” động viên quân sĩ trước khi tiến quân ra Bắc tiêu diệt quân Thanh vào tháng 12-1788 (năm Mậu Thân), vua Quang Trung đã thề “Đánh cho sử tri Nam quốc anh hùng chi hữu chủ”(2).

Tiếp nối truyền thống hào hùng của ông cha, 76 năm trước (ngày 2-9-1945), tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trịnh trọng đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, tuyên bố trước đồng bào cả nước và toàn thể thế giới: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thực đã trở thành một nước tự do và độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mệnh và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy”(3).

Gắn liền với ý chí sắt đá bảo vệ nền độc lập của dân tộc, quyền tự do của nhân dân, văn hóa ngoại giao Việt Nam luôn hàm chứa tinh thần hòa hiếu. Nghĩa quân Lam Sơn từng thả 10 vạn tù binh của nhà Minh về nước vào ngày 19-12-1284 do: “Nghĩ kế nước nhà trường cửu/ Tha cho mười vạn hàng binh/ Gây lại hòa hảo cho hai nước/ Dập tắt chiến tranh cho muôn đời”(4), như Nguyễn Trãi từng giãi bày.

Một trong những biểu hiện sáng ngời về văn hóa hòa hiếu trong thời hiện đại là tuyên bố của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Việt Nam muốn “Làm bạn với tất cả mọi nước dân chủ và không gây thù oán với một ai”(5). Thể hiện tinh thần hòa hiếu, sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiến hành hàng loạt hoạt động ngoại giao nhằm xây dựng một nền hòa bình. Người trực tiếp đàm phán với đại diện của chính quyền Pháp để ký kết Hiệp định Sơ bộ vào ngày 6-3-1946. Tiếp đó, Người thực hiện chuyến thăm chính thức tới nước Pháp gần 5 tháng để chỉ đạo đoàn đàm phán của nước ta tại Hội nghị Fontainebleau, đồng thời tranh thủ dư luận Pháp và thế giới ủng hộ nguyện vọng độc lập, thống nhất của nhân dân Việt Nam. Ngày 14-6-1946, trước khi về nước, Người đàm phán ký kết bản Tạm ước về quan hệ Việt Nam - Pháp, nhằm vãn hồi hòa bình, tranh thủ thêm thời gian để xây dựng thực lực cho cuộc kháng chiến toàn quốc. Chuyến thăm chính thức nước Pháp của Chủ tịch Hồ Chí Minh được đánh giá là “hiện tượng độc nhất vô nhị” trong quan hệ quốc tế, khi nguyên thủ quốc gia từng bị cái gọi là “mẫu quốc” thực dân kết án tử hình vắng mặt, nay lại dùng chính máy bay và tàu chiến của họ đưa sang thăm đất nước Pháp trên danh nghĩa thượng khách. Người là tấm gương sáng ngời về lòng dũng cảm và khí phách vô song của một vị anh hùng hiên ngang với niềm tin sắt đá vào chính nghĩa cách mạng và sự đồng lòng triệu người như một của toàn dân.

Hai là, văn hóa ngoại giao Việt Nam thể hiện tinh thần nhân văn đúng như danh nhân văn hóa thế giới Nguyễn Trãi từng bộc bạch: “Như nước Đại Việt ta từ trước/ Vốn xưng nền văn hiến đã lâu…/ Đem đại nghĩa để thắng hung tàn/ Lấy chí nhân để thay cường bạo”(6).

Tiếp nối truyền thống của người xưa, văn hóa ngoại giao thời đại Hồ Chí Minh luôn nêu cao tinh thần tự tôn dân tộc, nhưng không nuôi hận thù dân tộc, luôn phân biệt rạch ròi giữa các tầng lớp nhân dân với các thế lực hiếu chiến; sau khi kết thúc chiến tranh luôn bày tỏ thiện chí “khép lại quá khứ, hướng tới tương lai”; đối với tù binh cũng luôn đối xử nhân đạo. Sự kiện Chủ tịch Hồ Chí Minh - vị nguyên thủ quốc gia đã ngụy trang, đích thân tới thăm tù binh Pháp và dặn dò anh em chăm lo chu đáo cho cuộc sống của họ, sau Chiến dịch Biên giới Thu - Đông năm 1950 toàn thắng, là một trong những minh chứng rõ nét về tinh thần này.

Là một nhà ngoại giao Việt Nam, tôi từng có nhiều dịp đi thăm các quốc gia trên thế giới và tiếp xúc với không ít chính khách của các nước. Trong một lần tới thăm Houston - thành phố lớn nhất ở bang Texas (Mỹ) - tại cuộc gặp riêng với cựu Tổng thống Mỹ George Herbert Walker Bush, ông đã chia sẻ: Năm 1994, trước khi thực hiện chuyến thăm Việt Nam vào năm 1995, chỉ hai tháng sau khi Việt Nam và Hoa Kỳ bình thường hóa quan hệ, đã có khá nhiều phản ứng trái chiều trong lòng nước Mỹ về quyết định thăm Việt Nam của ông. Tuy nhiên, Tổng thống Mỹ G. H. W. Bush hết sức ngạc nhiên khi trong suốt chuyến thăm, không một người dân Việt Nam nào tỏ thái độ thù nghịch đối với ông, mà hoàn toàn trái lại - vô cùng thân mật, kể cả những cựu chiến binh Việt Nam. Cựu Tổng thống Mỹ G. H. W. Bush đã hỏi tôi vì sao như vậy? Tôi đã trả lời, người Việt Nam kiên định bảo vệ non sông, đất nước, nhưng luôn có tấm lòng rộng mở, nhân ái; khi chiến tranh kết thúc, sẵn sàng “gác lại quá khứ, hướng tới tương lai” của mối quan hệ hữu nghị, hợp tác. Thượng nghị sĩ Mỹ John McCain (Đảng Cộng hòa) và Thượng Nghị sĩ John Kerry (Đảng Dân chủ) từng ở thế đối đầu nhau khi mới bước chân vào chính trường, nhưng sau cùng, mối liên hệ mang tính cá nhân và hết sức đặc biệt của họ đối với Việt Nam lại trở thành sợi dây gắn kết cựu Trung úy hải quân J. Kerry và cựu tù binh nhà tù Hỏa Lò J. McCain trong một mục tiêu chung: hàn gắn quá khứ để bước tới tương lai. Nhiều người dân Nhật Bản, Hàn Quốc cũng nêu ra những câu hỏi tương tự như cố Tổng thống Mỹ G. H. W. Bush, đáp lại tôi thường trả lời khéo, nếu người Việt Nam “nuôi mãi hận thù dân tộc” thì sẽ “sống với ai” khi có quá nhiều nước lớn, nhỏ đã từng xâm lược Việt Nam. Có thể nói, tinh thần nhân văn đó đã giúp dân tộc Việt Nam “đánh vào lòng người, không chiến cũng thắng”(7) như Nguyễn Trãi từng bày tỏ.

Ba là, trong khi nêu cao niềm tự hào về nền văn hiến lâu đời và bản sắc riêng có của dân tộc, người dân Việt Nam không bao giờ khép kín mà luôn mở lòng tiếp nhận tinh hoa văn hóa của cả phương Đông lẫn phương Tây, luôn nhạy bén nắm bắt các xu thế tiến bộ lớn của thời đại; trong thương thuyết luôn kiên định bảo vệ lẽ phải nhưng không ngạo mạn; trong giao tiếp luôn cởi mở nhưng không suồng sã; trong ứng xử luôn khiêm nhường nhưng không quỵ lụy; khi đãi đằng khách quý luôn chu đáo nhưng không gò bó…

Đối với văn minh nhân loại, ngay từ năm 1919, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đánh giá: “Xét về nguyên tắc, tiến bộ chung phụ thuộc vào việc phát triển chủ nghĩa quốc tế; và văn minh chỉ có lợi khi các quan hệ quốc tế được mở rộng và tăng cường”(8). Một minh chứng khác về tinh thần cởi mở của Người là tháng 12-1946, trước ngưỡng cửa của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Người đã gửi thư tới Liên hợp quốc bày tỏ: “Đối với các nước dân chủ, nước Việt Nam sẵn sàng thực thi chính sách mở cửa và hợp tác trong mọi lĩnh vực: a) Nước Việt Nam dành sự tiếp nhận thuận lợi cho đầu tư của các nhà tư bản, nhà kỹ thuật nước ngoài trong tất cả các ngành kỹ nghệ của mình. b) Nước Việt Nam sẵn sàng mở rộng các cảng, sân bay và đường sá giao thông cho việc buôn bán và quá cảnh quốc tế. c) Nước Việt Nam chấp nhận tham gia mọi tổ chức hợp tác kinh tế quốc tế dưới sự lãnh đạo của Liên hợp quốc”(9). Điều đó cho thấy, chủ trương “hội nhập quốc tế” đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu ra từ 75 năm trước, mà không phải cho tới năm 1996 mới xuất hiện trong Văn kiện Đại hội VIII của Đảng.

Bốn là, trong quá trình đấu tranh cách mạng nói chung và đấu tranh ngoại giao nói riêng đã hình thành nên một hệ thống phương cách hành động đa dạng về loại hình, tinh tế về tính chất, hiệu quả về tác dụng, thể hiện rất rõ đặc sắc văn hóa ngoại giao Việt Nam.

Về mối quan hệ giữa thực lực và ngoại giao, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nhấn mạnh: “Phải trông ở thực lực. Thực lực mạnh, ngoại giao sẽ thắng lợi. Thực lực là cái chiêng mà ngoại giao là cái tiếng. Chiêng có to tiếng mới lớn”(10). Đúng như vậy, nếu không có sự kiện chiến thắng Điện Biên Phủ lịch sử ngày 7-5-1954, việc đưa cam kết của các nước tham dự Hội nghị công nhận “độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của nước ta” vào Tuyên bố cuối cùng của Hiệp định Genève ngày 21-7-1954 cũng không dễ dàng; nếu không có sự kiện lịch sử Điện Biên Phủ trên không năm 1972 thì Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam khó có thể được ký kết vào ngày 27-1-1973. Điều đó không có nghĩa là ngoại giao đóng vai trò thụ động; trái lại, thành công của ngoại giao đã đóng góp thiết thực và to lớn vào việc củng cố thực lực của đất nước.

Khi đề cập tới “thực lực” có lẽ nên hiểu đó là sự tổng hòa cả “sức mạnh cứng” (kinh tế, quân sự) và “sức mạnh mềm” thể hiện trong tinh hoa văn hóa của dân tộc, ý chí kiên cường và tinh thần đoàn kết của toàn dân; tính chính nghĩa của sự nghiệp; tính đúng đắn của đường lối và sự sắc bén trong lãnh đạo, điều hành đất nước. Những cách tiếp cận “cương - nhu” tùy từng vấn đề, từng thời điểm và từng đối tác; “Nguyên tắc của ta thì phải vững chắc, nhưng sách lược của ta thì linh hoạt”(11) đều thể hiện rõ nét đặc sắc văn hóa ngoại giao Việt Nam.

Văn hóa ngoại giao Việt Nam còn thể hiện trong những phương châm quan trọng mà Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nhấn mạnh trong tập thơ “Nhật ký trong tù”: “Phải nhìn cho rộng, suy cho kỹ,/ Kiên quyết; không ngừng thế tiến công;/ Lạc nước, hai xe đành bỏ phí, Gặp thời, một tốt cũng thành công”(12). Với tinh thần đó, hoạt động ngoại giao Việt Nam luôn dựa trên sự phân tích kỹ lưỡng mọi nhân tố bên trong và bên ngoài, luôn thể hiện tinh thần tấn công ngay cả khi tạm thời hòa hoãn; không chỉ nhanh nhạy nắm bắt mà luôn chủ động tạo dựng thời cơ giành thắng lợi.

Thực hiện triết lý “bạn bè xa không bằng láng giềng gần”, đồng thời thể hiện khí phách dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng xác định chủ trương coi các nước Á châu là anh em, ngũ cường là bạn bè (13). Ngày nay, chủ trương nhìn xa trông rộng của Người đã trở thành hiện thực sinh động khi Việt Nam có quan hệ hợp tác hữu nghị với tất cả các nước châu Á và nâng tầm quan hệ với cả 5 nước Ủy viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc lên mức hợp tác chiến lược và toàn diện. Hơn thế nữa, Việt Nam đã hai lần đảm nhiệm thành công trọng trách Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc.

Là nước nhỏ luôn phải đối đầu với những đội quân xâm lược từ các nước lớn, triết lý ngoại giao Việt Nam luôn ẩn chứa ý tưởng đánh thắng từng bước, đánh đổ từng bộ phận, tiến tới thắng lợi hoàn toàn. Bằng việc ký kết Hiệp định Sơ bộ ngày 6-3-1946, Việt Nam đã đẩy được 20 vạn quân Tưởng về nước để dồn sức ứng phó với quân đội Pháp đang suy yếu về tinh thần và ý chí; Hiệp định Genève năm 1954 đã đem lại hòa bình và tự do cho miền Bắc, làm hậu phương lớn cho cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam; Hiệp định Paris năm 1973 đã tạo điều kiện cho quân và dân Việt Nam thực hiện trọn vẹn lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Đánh cho Mỹ cút” để rồi tiếp tục “đánh cho Ngụy nhào”, thống nhất giang sơn, non sông thu về một mối.

Triết lý cách mạng và ngoại giao Việt Nam luôn coi trọng ý tưởng về “sức mạnh tổng hợp” của các quân chủng hợp thành: đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước và ngoại giao nhân dân; bảo đảm sự phối hợp nhịp nhàng giữa các mặt trận quân sự, chính trị, ngoại giao trong thời chiến; chính trị, kinh tế, văn hóa trong thời bình. Ngày nay, khi Việt Nam đang hướng tới mục tiêu trở thành quốc gia phát triển vào năm 2045, trước những cơ hội và thách thức mới trên thế giới, cần đặt cao hơn nữa và thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa ngoại giao khoa học - công nghệ, ngoại giao đào tạo, ngoại giao môi trường tương tự như chiến dịch “ngoại giao vaccine” được tiến hành tích cực.

Đặt sự nghiệp dân tộc trong dòng chảy chung của thời đại, ngoại giao Việt Nam luôn giương cao ngọn cờ “kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế” qua đó gia tăng gấp bội thực lực đất nước.

Được vận dụng nhuần nhuyễn trong công cuộc cách mạng nói chung, hoạt động ngoại giao nói riêng, những triết lý trên đã góp phần vô cùng quan trọng vào những thành tựu to lớn của nhân dân ta trong suốt 76 năm qua. Phải chăng, những vấn đề nêu trên thể hiện bốn đặc sắc văn hóa ngoại giao Việt Nam: Kiên định trong mục tiêu; nhân văn trong cốt cách; rộng mở trong tâm hồn; linh hoạt trong hành động? Những cảm nhận đó nảy sinh trong tôi không chỉ qua việc nghiên cứu tài liệu, sách vở, mà còn qua những điều được nghe, được thấy, thậm chí được tham gia trong suốt 65 năm gắn bó với nghề ngoại giao. Thế hệ cán bộ ngoại giao của chúng tôi có hạnh phúc lớn là từng được phục vụ nhiều hoạt động ngoại giao của Chủ tịch Hồ Chí Minh và những người học trò gần gũi của Người, như các đồng chí Lê Duẩn, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Lê Đức Thọ, Nguyễn Duy Trinh, Xuân Thủy, Nguyễn Cơ Thạch…, qua đó lĩnh hội được rất nhiều bài học sâu sắc thể hiện tầm văn hóa trong giao tiếp đối ngoại. Thời gian tới, hy vọng rằng, vấn đề “ngoại giao văn hóa Việt Nam” sẽ tiếp tục được đi sâu nghiên cứu kỹ lưỡng, đánh giá toàn diện hơn nữa.

Việc vận dụng nhuần nhuyễn những giá trị văn hóa ngoại giao không chỉ là công việc của các nhà ngoại giao chuyên nghiệp, mà còn là yêu cầu không thể thiếu đối với mọi ngành, mọi cấp, thậm chí đối với mỗi người dân trong bối cảnh đất nước hội nhập ngày càng sâu rộng với thế giới bên ngoài. Thiết nghĩ, khi tiếp xúc với bạn bè gần, xa ở trong nước cũng như khi đi công tác nước ngoài, mỗi người dân Việt Nam đều cần phải trở thành những “đại sứ” chuyển tải tinh hoa văn hóa dân tộc nói chung và văn hóa ngoại giao Việt Nam nói riêng tới cộng đồng quốc tế. Thế nhưng, hiện nay trong cách ứng xử với bên ngoài vẫn có những cán bộ, người dân Việt Nam không những không “khoe” được cái đẹp, mà còn bộc lộ nhiều nét chưa đẹp, chưa hay. Nếu những “vết mờ” đó vẫn tồn tại, văn hóa dân tộc nói chung và văn hóa ngoại giao Việt Nam nói riêng khó có thể tỏa sáng toàn diện.

Đối với những cán bộ trực tiếp làm công tác đối ngoại, cùng một lúc phải gánh trên vai bốn nền văn hóa: Văn hóa ngoại giao; văn hóa dân tộc; văn hóa cần có của mỗi công chức, đảng viên; văn hóa nhân loại, bao gồm cả văn hóa riêng có của các dân tộc, để có thể “nhập gia tùy tục” một cách suôn sẻ. Cách tiếp cận như vậy sẽ giúp Việt Nam thắp sáng hơn nữa văn hóa ngoại giao nước nhà. Hy vọng rằng, các hội nghị văn hóa, xây dựng Đảng và đối ngoại toàn quốc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng tiếp nối nhau diễn ra là những cú hích mạnh mẽ thúc đẩy văn hóa Việt Nam nói chung và văn hóa ngoại giao Việt Nam nói riêng thêm tỏa sáng. Vận dụng lời chỉ dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Văn hóa soi đường cho quốc dân đi”, có thể tin tưởng rằng, văn hóa ngoại giao sẽ soi đường cho ngoại giao Việt Nam không ngừng tiến bước, góp phần to lớn hơn nữa vào công cuộc hiện đại hóa đất nước, đưa Việt Nam lên đài quang vinh, sánh vai cùng bè bạn năm châu như Bác Hồ hằng mong ước./.

Vũ Khoan, nguyên Bí thư Trung ương Đảng, nguyên Phó Thủ tướng Chính phủ