Quán triệt về chủ trương
Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ và HNQT toàn diện, sâu rộng là quan điểm nhất quán, thể hiện sự vận dụng sáng tạo chủ trương xây dựng đất nước của Đảng ta trong điều kiện mới. Trong thế giới đầy biến động hiện nay, chỉ có thực hiện tốt chủ trương đó, chúng ta mới có thể khắc phục hạn chế, bất cập, vượt qua khó khăn, thách thức, tận dụng tốt cơ hội, hiện thực hóa các mục tiêu chiến lược phát triển đất nước như Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã đề ra.
Về vấn đề xây dựng nền kinh tế tự chủ, Đại hội XIII của Đảng (2021) đã nêu: “Chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế”, “Đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ kinh tế quốc tế, tránh lệ thuộc vào một thị trường, một đối tác. Nâng cao khả năng chống chịu của nền kinh tế trước tác động tiêu cực từ những biến động bên ngoài; chủ động hoàn thiện hệ thống phòng vệ để bảo vệ nền kinh tế, doanh nghiệp, thị trường trong nước phù hợp với các cam kết quốc tế”; đồng thời “Giữ vững độc lập, tự chủ trong việc xác định chủ trương, đường lối, chiến lược phát triển kinh tế đất nước”...
Để quá trình hội nhập quốc tế thực sự có kết quả, đưa đất nước phát triển, Đảng ta xác định phải xử lý hài hòa mối quan hệ giữa xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ gắn với hội nhập quốc tế. Hai nhiệm vụ chiến lược đó đều cùng hướng tới một mục tiêu chung là đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, đưa đất nước phát triển nhanh, bền vững, nhằm làm cho thế và lực của đất nước được tăng cường, thực hiện thắng lợi mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Đó là hai mặt của sự thống nhất, vừa có mặt thuận, vừa có mặt nghịch, vừa tạo đà, tạo thế cho nhau, vừa tác động không thuận chiều, thậm chí có điểm mâu thuẫn với nhau, nhưng là mâu thuẫn trong sự phát triển.
Những kết quả đạt được trong xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế
Trong tiến trình xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế, nước ta đã đạt được những thành tựu quan trọng, ngày càng phát triển và khẳng định vị thế của đất nước trên trường quốc tế. Có thể nêu những kết quả sau đây:
Chúng ta đã thực hiện đường lối, cơ chế, chính sách phát triển nền kinh tế độc lập, tự chủ và hội nhập kinh tế quốc tế đúng đắn, hiệu quả, phù hợp với điều kiện phát triển của đất nước và xu thế phát triển của thế giới: Việc xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ là một nội dung trong các nội dung cốt lõi của hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển kinh tế thị trường (KTTT) định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN) ở Việt Nam; có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền XHCN, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; bảo đảm định hướng XHCN, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Đây không phải là nền kinh tế khép kín, mà là nền KTTT mở cửa, hội nhập. Mặt khác, chúng ta tập trung hoàn thiện thế chế, pháp luật phù hợp với thông lệ, cam kết quốc tế và điều kiện thực tiễn Việt Nam.
Để nâng cao sức chống chịu và khả năng cạnh tranh của nền kinh tế, chúng ta đã phối hợp đồng bộ, hiệu quả, linh hoạt các chính sách tài khóa, tiền tệ và các chính sách khác, thực hiện nhất quán mục tiêu ưu tiên ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn, mở rộng thị trường xuất khẩu gắn với chú trọng phát triển thị trường trong nước, tăng cường năng lực phân tích, dự báo, chủ động các kịch bản, phương án ứng phó, phản ứng chính sách phù hợp, nền kinh tế Việt Nam đã kịp thời ứng phó với những biến động, cú sốc từ bên ngoài. Bên cạnh đó, Việt Nam đã thiết lập được nhiều quan hệ đối tác chiến lược về kinh tế và tham gia tích cực các quan hệ đó: Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN); Tổ chức Thương mại thế giới (WTO); các Hiệp định thương mại tự do (FTA) song phương và đa phương thế hệ mới… Nhờ vậy, kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, năng lực chống chịu được nâng cao hơn - thể hiện rõ tính độc lập, tự chủ ngày càng nâng lên trong quá trình HNQT; được thể hiện rõ qua việc khôi phục và phát triển kinh tế - xã hội dưới tác động nghiêm trọng, sâu rộng của đại dịch COVID-19 và chiến tranh thương mại giữa các nước lớn.
Chúng ta đã tận dụng khá tốt các cơ hội từ hội nhập quốc tế. Theo đó, Việt Nam không ngừng mở rộng và phát triển quan hệ với hầu hết quốc gia, tổ chức trên toàn thế giới; từng bước đưa quan hệ đi vào chiều sâu, hiệu quả, nhất là với 8 đối tác chủ chốt, bao gồm Trung Quốc, Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ, Nga, ASEAN, Liên minh châu Âu (EU)… Đến nay, thị trường xuất khẩu của Việt Nam được mở rộng đến 230 quốc gia và vùng lãnh thổ, kim ngạch xuất khẩu tăng bình quân trên 10%/năm.
Không ngừng nâng cao tiềm lực kinh tế đất nước, đời sống của nhân dân; có tích lũy để đầu tư phát triển, gắn phát triển kinh tế với tiến bộ, công bằng xã hội. Tăng trưởng kinh tế đạt tốc độ cao, nên sau gần 40 năm đổi mới, quy mô nền kinh tế Việt Nam tăng từ khoảng 4 tỷ USD khi bắt đầu đổi mới lên hơn 400 tỷ USD hiện nay. Từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, với khoảng 90% dân số làm nông nghiệp, chúng ta đã xây dựng được cơ sở vật chất - kỹ thuật, hạ tầng kinh tế - xã hội từng bước đáp ứng cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tạo ra môi trường thu hút nguồn lực xã hội cho phát triển...
Thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và phân phối thông qua hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội. Luôn gắn kinh tế với xã hội, thống nhất chính sách kinh tế với chính sách xã hội, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước, từng chính sách và trong suốt quá trình phát triển. Các thành tựu xây dựng con người của nước ta còn được thể hiện qua chỉ số HDI có xu hướng tăng đều và khá ổn định, cả về giá trị tuyệt đối cũng như thứ hạng. Trong những năm qua, Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng ghi nhận trong công tác xóa đói, giảm nghèo.
Một số hạn chế, bất cập
Bên cạnh những thành tựu đạt được, việc xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ và HNQT cũng bộc lộ một số hạn chế, yếu kém cần khắc phục:
Hội nhập quốc tế và giữ vững độc lập, tự chủ về mặt kinh tế là sự nghiệp chung của toàn xã hội, song việc triển khai mới chỉ được thực hiện chủ yếu ở một số bộ, ngành ở Trung ương. Việc phối hợp giữa các bộ, ngành chưa thật chặt chẽ và đồng bộ, do đó quá trình triển khai còn thiếu sự thống nhất, đôi khi còn nặng về coi trọng lợi ích cục bộ của bộ, ngành mình, làm ảnh hưởng chung đến quá trình HNQT.
Việc nhận thức về hội nhập quốc tế cũng như về nội dung của các điều khoản mà Việt Nam đã cam kết, các quy định, quy tắc của các FTA cả thế hệ cũ và thế hệ mới chưa thật sự đầy đủ ở các cấp, ngành, địa phương, làm ảnh hưởng đến việc bảo đảm độc lập, tự chủ trong quan hệ kinh tế - thương mại. Tốc độ tăng trưởng kinh tế tuy tương đối cao, nhưng chủ yếu vẫn dựa nhiều vào các yếu tố phát triển theo chiều rộng, chậm chuyển sang phát triển theo chiều sâu, năng suất lao động thấp, có nguy cơ tụt hậu so với các nước trong khu vực…
Định hướng, giải pháp trong bối cảnh mới
Bối cảnh quốc tế giai đoạn hiện nay có những diễn biến phức tạp, ảnh hưởng và tác động mạnh mẽ đến định hướng xây dựng nền kinh tế độc lập và tự chủ. Dụ thể như: Các cuộc xung đột gia tăng, biến đổi khí hậu ngày càng ảnh hưởng nặng nề; lạm phát trên một số nền kinh tế lớn đang có xu hướng gia tăng; việc thắt chặt chính sách tiền tệ sẽ khiến tăng trưởng kinh tế toàn cầu đứng trước nguy cơ suy giảm…
Trong bối cảnh đó, việc xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế theo tinh thần Đại hội XIII của Đảng sẽ góp phần hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc. Qua trình đó cần được thực hiện theo các định hướng phù hợp:
- Kiên định xây dựng chủ nghĩa xã hội (CNXH) và con đường đi lên CNXH. Đảm bảo giữ vững độc lập, tự chủ trong việc xác định chủ trương, đường lối, chiến lược phát triển kinh tế đất nước. Trong đó, phải xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa giữ vững độc lập, tự chủ và HNQT. Đây là vấn đề mang tầm chiến lược của mỗi quốc gia trong tiến trình HNQT; là hai mặt quan hệ biện chứng. Mặt khác, trong thực tế không phải lúc nào các bước đi hội nhập cũng tác động thuận đến sự ổn định và phát triển của đất nước; có thể có cả tác động không thuận, nhất là khi HNQT không dựa trên thực lực của đất nước hay không giữ vững được độc lập, tự chủ trong HNQT. Vì vậy, phải luôn xem xét, cân nhắc cụ thể tác động bất lợi có thể có của mỗi bước đi hội nhập đến sự ổn định và phát triển của đất nước để có quyết sách tối ưu.
- Luôn thực hiện đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ kinh tế quốc tế nhằm vừa khai thác tiềm năng, lợi thế của các thị trường, vừa tránh lệ thuộc vào một thị trường, một đối tác, nhất là khi thị trường hay đối tác đó có sự biến động.
- Để nâng cao hiệu quả HNQT, góp phần xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật phù hợp với điều ước quốc tế và cam kết quốc tế mà Việt Nam tham gia.
- Giữ vững phương châm vốn nước ngoài là quan trọng, vốn trong nước là quyết định; Kết hợp hài hòa vốn trong nước và vốn ngoài nước trong tổng thể phát triển nền kinh tế; Bảo đảm các thành phần kinh tế đều bình đẳng trong phát triển kinh tế. Kiên định phương châm kinh tế nhà nước là nền tảng, kinh tế tư nhân là động lực phát triển. Kinh tế nhà nước và kinh tế tư nhân phối hợp đồng bộ với nhau, đóng góp vào tăng trưởng và phát triển kinh tế. Nhà nước làm tốt vai trò tạo dựng môi trường, kinh tế mở đường, tạo cơ sở cho kinh tế tư nhân tăng trưởng và đóng góp vào quá trình phát triển kinh tế.
Vừa qua Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã khái quát lại 6 nhóm giải pháp để triển khai thực hiện, gồm:
Thứ nhất, duy trì sự ổn định và phát triển trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội, môi trường… trong đó trọng tâm lớn nhất là giữ vững ổn định và phát triển về hệ thống chính trị, an ninh, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ.
Thứ hai, triển khai quyết liệt và hiệu quả các giải pháp đột phá: Thứ nhất là phải đột phá về thể chế mà trọng tâm là hoàn thiện thể chế pháp luật, trong đó hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đồng bộ với thị trường, phù hợp với thông lệ quốc về và gắn với điều kiện đặc thù của Việt Nam; Đột phá thứ hai là về hạ tầng, trọng tâm là phát triển hạ tầng quy mô lớn, tạo sự lan tỏa; Đột phá thứ ba là về nguồn nhân lực, mà trọng tâm là phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao và đổi mới sáng tạo, phát triển khoa học công nghệ để dần tiến tới từng bước làm chủ khoa học công nghệ để tăng cường tính tự chủ của nền kinh.
Thứ ba, cần có sự chuyển biến mạnh mẽ hơn về cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới động lực tăng trưởng, nâng cao năng suất lao động, tăng tính cạnh tranh chất lượng của nền kinh tế.
Thứ tư, duy trì sự ổn định kinh tế vĩ mô và kiểm soát lạm phát, bảo đảm an ninh và an sinh xã hội, bảo vệ môi trường, ứng phó hiệu quả với dịch bệnh, biến đổi khí hậu… đây là nhiệm vụ kiến tạo nên sự phát triển xanh, phát triển bền vững.
Thứ năm, huy động tối đa nguồn lực để phục vụ cho việc phát triển. Bám sát quan điểm quả Đảng đó là ngoại lực quan trọng, nội lực quyết định sự phát triển gắn với sự phát triển vững chắc thị trường trong nước, đa dạng hóa thị trường ngoài nước, và hạn chế tác động của sự đứt gãy nguồn cung.
Thứ sáu, thực hiện các giải pháp để chủ động tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng và nâng cao vị thế, vai trò của đất nước gắn với bảo vệ vững chắc chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ; bảo vệ, duy trì hòa bình và phát triển./.
Ths. Hoàng Xuân Lam