21/11/2024 lúc 23:04 (GMT+7)
Breaking News

Đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, phát triển đất nước nhanh, bền vững theo tư tưởng Hồ Chí Minh

Đất nước ta đang nỗ lực đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế sâu rộng, với thời cơ, thuận lợi và thách thức, khó khăn đan xen. Trong bối cảnh đó, việc tiếp tục nghiên cứu, vận dụng, phát triển sáng tạo tư tưởng đổi mới của Chủ tịch Hồ Chí Minh có ý nghĩa quan trọng, là nền tảng tư tưởng và cơ sở lý luận để xây dựng phương hướng, biện pháp nhằm hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước ngày càng hùng cường, phồn vinh, hạnh phúc.

Tư tưởng Hồ Chí Minh soi sáng công cuộc đổi mới, phát triển đất nước

Xuyên suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có nhiều chỉ dẫn quan trọng để nhân dân ta giành thắng lợi trong hai cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, đem lại nền độc lập, thống nhất và mở ra một thời đại mới, xây dựng đất nước phát triển sánh vai với các cường quốc năm châu. Trong công cuộc đổi mới hiện nay, tư tưởng Hồ Chí Minh tiếp tục soi sáng con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, xây dựng đất nước phát triển phồn vinh, hạnh phúc. Chính vì vậy, cùng với chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh là một bộ phận quan trọng cấu thành nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, sự lãnh đạo của Đảng và cách mạng Việt Nam.

Tháng 12-1986, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng đánh dấu mốc quan trọng trong lịch sử cách mạng Việt Nam với việc quyết định tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện, đưa đất nước thoát khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội. Đường lối đổi mới được đưa ra tại Đại hội VI của Đảng trước hết là đổi mới về tư duy nhận thức và tư tưởng, lý luận. Đảng ta nhấn mạnh: “Muốn đổi mới tư duy, Đảng ta phải nắm vững bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, kế thừa di sản quý báu về tư tưởng và lý luận cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh”(1). Từ đây, Đảng ta xác định tư tưởng Hồ Chí Minh với bản chất cách mạng, khoa học có vai trò và ý nghĩa quan trọng trong công cuộc đổi mới đất nước. Nhờ đó, kinh tế - xã hội phát triển, chính trị ổn định, chế độ được giữ vững, đất nước vững bước trên con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội.

Đến Đại hội VII của Đảng (tháng 6-1991), cùng với việc thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng khẳng định: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động. Đảng lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản”(2) và tổng kết thành bài học: “Điều kiện cốt yếu để công cuộc đổi mới giữ được định hướng xã hội chủ nghĩa và đi đến thành công là trong quá trình đổi mới Đảng phải kiên trì và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh”(3). Năm 2001, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng tiếp tục khẳng định những bài học đổi mới còn nguyên giá trị của các kỳ đại hội trước đó, cụ thể là: “Trong quá trình đổi mới phải kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh”(4). Các kỳ Đại hội X, XI, XII của Đảng tiếp tục nhấn mạnh vị trí, vai trò của tư tưởng Hồ Chí Minh trong công cuộc đổi mới đất nước, khẳng định chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động.

Đến năm 2021, Đại hội XIII của Đảng ta chỉ rõ: “Kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới của Đảng; kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”(5). Trải qua các kỳ đại hội, Đảng ta luôn quán triệt và khẳng định giá trị, sức sống mãnh liệt của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh đối với công cuộc đổi mới đất nước, giữ vai trò là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của cách mạng Việt Nam, là hành trang cho cách mạng Việt Nam vững bước trên con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội.

Tư tưởng Hồ Chí Minh thể hiện tính độc lập, tự chủ và sáng tạo, không giáo điều; là một hệ thống quan điểm mở, trân trọng những giá trị văn hóa của dân tộc và nhân loại, phản ánh từ lịch sử đến hiện tại và là tư tưởng của sự đổi mới, có giá trị bền vững; đồng thời, thể hiện một hệ thống luận điểm có giá trị nền tảng, định hướng cho sự phát triển của cách mạng Việt Nam, tiếp tục soi sáng cho công cuộc đổi mới. Tính định hướng, tiếp tục soi sáng cho công cuộc đổi mới, phát triển đất nước trong tư tưởng Hồ Chí Minh được thể hiện ở một số điểm sau:

Thứ nhất, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, đổi mới là bản chất của cách mạng, của phát triển.

Trong tác phẩm Đường Cách mệnh (năm 1927), Người chỉ rõ: “Cách mệnh là phá cái cũ đổi ra cái mới, phá cái xấu đổi ra cái tốt”(6). Trong bản Di chúc Người để lại, khi bàn đến công cuộc kiến thiết đất nước sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước kết thúc thắng lợi, Người nhấn mạnh: “Đây là một cuộc chiến đấu chống lại những gì đã cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi. Để giành lấy thắng lợi trong cuộc chiến đấu khổng lồ này cần phải động viên toàn dân, tổ chức và giáo dục toàn dân, dựa vào lực lượng vĩ đại của toàn dân”(7). Rõ ràng, đổi mới phải nhằm mục tiêu phục vụ nhân dân và là sự nghiệp của toàn dân.

Thứ hai, về triết lý và mục tiêu đổi mới. Triết lý, chân lý đổi mới trong tư tưởng Hồ Chí Minh là vì mục tiêu “ích nước, lợi dân”. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở: “Việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh”(8). Người coi đó là chân lý bởi lẽ: “Chân lý là cái gì có lợi cho Tổ quốc, cho nhân dân. Cái gì trái với lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân tức là không phải chân lý(9). Như vậy, mục tiêu của công cuộc đổi mới là nhằm phục vụ sự phát triển đất nước, phục vụ nhân dân.

Thứ ba, về phương châm đổi mới. Công cuộc đổi mới là cả một quá trình lâu dài, phức tạp, trải qua nhiều gian lao, thử thách; phải kiên định, kiên trì, lựa chọn bước đi thích hợp, không nôn nóng, chủ quan mới giành thắng lợi. Người căn dặn: “thắng đế quốc và phong kiến là tương đối dễ; thắng bần cùng và lạc hậu còn khó hơn nhiều”(10); đấu tranh xóa bỏ cái cũ, xây dựng cái mới là công việc cực kỳ to lớn, vinh quang, nhưng cũng đầy khó khăn và không dễ dàng. Vì vậy, phương châm thực hiện công cuộc đổi mới phải được chuẩn bị chu đáo, kế hoạch rõ ràng, chắc chắn để bảo đảm phát triển đất nước toàn diện, bền vững.

Thứ tư, về nguyên tắc đổi mới. Nguyên tắc tiến hành đổi mới là dựa vào dân, sức mạnh từ nhân dân. Người cho rằng: “Công cuộc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân”(11); để giành thắng lợi “cần phải động viên toàn dân, tổ chức và giáo dục toàn dân, dựa vào lực lượng vĩ đại của toàn dân”(12). Phải luôn kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại theo tinh thần cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới. Đổi mới trong quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh không phải là phủ định sạch trơn tất cả, mà là sự kế thừa và phát triển; cái cũ mà xấu thì bỏ, cái gì cũ mà không xấu, nhưng phiền phức thì phải sửa đổi cho hợp lý, cái gì cũ mà tốt thì phát triển thêm, cái gì mới mà hay thì phải làm.

Thứ năm, về vai trò lãnh đạo của Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Trước hết phải có đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy”(13). Nhờ sự lãnh đạo tài tình của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhân dân ta đã giành được những thắng lợi vẻ vang trong thời kỳ cách mạng dân tộc dân chủ và chính Đảng sẽ đóng vai trò là linh hồn của công cuộc đổi mới khi đất nước bước vào con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội. Người cũng đưa ra dự báo: “Thế giới ngày ngày đổi mới, nhân dân ta ngày càng tiến bộ, cho nên chúng ta phải tiếp tục học và hành để tiến bộ kịp nhân dân”(14). Vì thế, Đảng vận dụng chủ nghĩa Mác - Lê-nin và kinh nghiệm thực tiễn thế giới vào điều kiện cụ thể Việt Nam một cách sáng tạo, phù hợp. Bên cạnh đó, phải thường xuyên tự xây dựng, tự chỉnh đốn để nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu ngang tầm với nhiệm vụ, giữ vững sự trong sạch, vững mạnh, xây dựng Đảng “là đạo đức, là văn minh”.

Hệ thống quan điểm về đổi mới và triết lý phát triển của Chủ tịch Hồ Chí Minh được diễn đạt giản dị, dễ hiểu, nhưng mang ý nghĩa sâu sắc, thể hiện sự kế thừa và đúc kết tinh hoa tri thức của dân tộc và nhân loại. Do đó, cần nghiên cứu thấu đáo để bổ sung, phát triển, vận dụng sáng tạo tư tưởng của Người vào thực tiễn cách mạng Việt Nam một cách hiệu quả để đẩy mạnh công cuộc đổi mới, phát triển đất nước nhanh, bền vững.

Tiếp tục kiên định tư tưởng Hồ Chí Minh, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, phát triển đất nước nhanh, bền vững

Trong bối cảnh thế giới và trong nước tiếp tục có nhiều diễn biến nhanh, phức tạp, khó dự báo; đồng thời, hòa bình, hợp tác, liên kết và phát triển vẫn là xu thế lớn. Tuy nhiên, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế tiếp tục tiến triển, nhưng cũng đang bị đe dọa bởi sự trỗi dậy của chủ nghĩa dân tộc cực đoan, cạnh tranh chiến lược, cạnh tranh kinh tế, chiến tranh thương mại diễn ra gay gắt. Mặt khác, khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo và cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang phát triển mạnh mẽ, tạo đột phá sâu, rộng và đa chiều trên phạm vi toàn cầu, trở thành nhân tố quan trọng, quyết định đối với năng lực cạnh tranh của mỗi quốc gia - dân tộc. Bên cạnh đó, sự tác động của đại dịch COVID-19 đã ảnh hưởng nghiêm trọng trên nhiều mặt của đời sống xã hội và đến nay vẫn còn diễn biến phức tạp. Biến đổi khí hậu, thiên tai và các vấn đề an ninh phi truyền thống, nhất là an ninh mạng ngày càng tác động mạnh mẽ, đe dọa trực tiếp đến sự phát triển ổn định, bền vững của thế giới, khu vực và Việt Nam.

Trong khi đó, trải qua hơn 36 năm đổi mới, lý luận về đường lối đổi mới, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng sáng rõ hơn và từng bước được hiện thực hóa. Đất nước ngày càng phát triển toàn diện và mạnh mẽ, đạt được nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, nền kinh tế phát triển gắn liền với ổn định chính trị - xã hội; đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân không ngừng được nâng cao; uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế ngày càng được khẳng định và “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”(15). Những thành tựu đạt được qua hơn 36 năm đổi mới đã tiếp tục khẳng định công cuộc đổi mới cùng với quyết tâm kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội là hoàn toàn phù hợp với thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại; trong đó, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam.

Bên cạnh thành tựu, đất nước ta vẫn đứng trước nhiều nguy cơ, thách thức lớn. Nền kinh tế phát triển chưa tương xứng với tiềm năng của đất nước. Năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh của nền kinh tế chưa cao. Công tác quản lý phát triển xã hội còn một số hạn chế, chưa theo kịp yêu cầu phát triển. Các lĩnh vực văn hóa, xã hội, bảo vệ môi trường nhiều mặt còn hạn chế, chậm được khắc phục; khoảng cách chênh lệch về mức sống và phân hóa giàu nghèo giữa các vùng, miền vẫn còn lớn. Tình hình an ninh, chính trị, trật tự, an toàn xã hội trên một số địa bàn còn diễn biến phức tạp; các thế lực thù địch luôn âm mưu, tìm cách chống phá Đảng và Nhà nước ta. Yêu cầu đặt ra không chỉ là giải quyết nguy cơ, thách thức, mà còn cần tích cực, chủ động trong tình hình mới, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới, phát triển đất nước giàu đẹp, văn minh.

Thực tế đã chứng minh, công cuộc đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo với việc xác định chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động đã đưa đất nước ta thoát khỏi khủng hoảng, vượt qua khó khăn, thử thách và đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Đây là niềm tự hào, là động lực quan trọng, là niềm tin để toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta vượt qua mọi khó khăn, thách thức, tiếp tục vững bước trên con đường đổi mới toàn diện, đồng bộ; phát triển nhanh và bền vững đất nước. Ý chí và khát vọng về một dân tộc Việt Nam hùng cường của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặt nền móng, cơ sở để từng bước đưa dân tộc Việt Nam tiến cùng nhịp bước với trào lưu tiến bộ trên thế giới và ý nguyện hòa bình, phát triển của nhân loại.

Để tiếp tục đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, phát triển đất nước nhanh, bền vững theo tư tưởng Hồ Chí Minh nhằm hiện thực hóa khát vọng đổi mới sáng tạo và xây dựng nước Việt Nam phát triển phồn vinh, hạnh phúc, cần vận dụng sáng tạo tư tưởng của Người trong bối cảnh mới của thời đại, phù hợp với tình hình thực tiễn của đất nước qua một số nội dung sau:

Thứ nhất, luôn kiên định, trung thành với lý tưởng, mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội mà Đảng ta, dân tộc ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn. Đổi mới là một quá trình cách mạng toàn diện, sâu sắc và triệt để trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.

Đổi mới không phải là từ bỏ, thay đổi mục tiêu chủ nghĩa xã hội mà là làm cho mục tiêu ấy được thực hiện hiệu quả, để chủ nghĩa xã hội phát huy được bản chất ưu việt, tránh bệnh giáo điều, trì trệ và xơ cứng trong tư duy và tư tưởng, làm sống động những giá trị bền vững của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong thực tiễn đổi mới của Việt Nam. Hơn nữa, công cuộc đổi mới của nước ta là một quá trình lâu dài, khó khăn và phải trải qua nhiều bước đi, chặng đường nên phải luôn kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội để giữ vững mục tiêu, định hướng phát triển, bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đây là vấn đề mang tính nguyên tắc, có ý nghĩa sống còn đối với chế độ ta, là nền tảng cơ bản của công cuộc đổi mới, không cho phép ai được ngả nghiêng, dao động.

Thứ hai, khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc và quyết tâm phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, tăng cường kỷ luật, kỷ cương, sức mạnh tổng hợp của nền văn hóa, con người Việt Nam. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, thu hút, trọng dụng nhân tài, trong đó có những người đã và đang học tập, làm việc ở nước ngoài; thúc đẩy đổi mới sáng tạo, ứng dụng mạnh mẽ khoa học và công nghệ, nhất là những thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, tạo động lực mới cho phát triển nhanh và bền vững đất nước.

Bên cạnh đó, giữ gìn và phát huy giá trị văn hoá, sức mạnh, ý chí, tinh thần và khát vọng vươn lên của con người Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, hội nhập quốc tế. Cần quan tâm hơn nữa đến nhiệm vụ phát triển văn hoá, xã hội, hài hoà và ngang tầm với phát triển kinh tế; không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Chăm lo đời sống người có công với cách mạng, người có hoàn cảnh khó khăn; xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh, gắn với bảo tồn, phát huy các giá trị, bản sắc văn hóa nông thôn, đô thị, giải quyết việc làm, giảm nghèo bền vững; ưu tiên bố trí nguồn lực thực hiện các chương trình, đề án, chính sách đối với đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo(16).

Thứ ba, gắn phát triển kinh tế với phát triển xã hội, bảo đảm an sinh xã hội, chăm lo bảo vệ môi trường vì sự phát triển bền vững của đất nước và phục vụ cuộc sống, vì cuộc sống bình yên của người dân.

Cần tiếp tục quán triệt thật sâu sắc, tổ chức thực hiện thật nghiêm, thật tốt chủ trương, đường lối của Đảng và luật pháp, chính sách của Nhà nước về phát triển nhanh và bền vững. Chú trọng củng cố, tăng cường nền tảng kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, nâng cao năng lực nội tại và tính tự chủ của nền kinh tế trên cơ sở lành mạnh hoá, giữ vững sự phát triển ổn định, an toàn của hệ thống các tổ chức tín dụng, thị trường tiền tệ, thị trường bất động sản, thị trường chứng khoán, trái phiếu doanh nghiệp. Tập trung ưu tiên cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh; giải quyết hiệu quả khó khăn, hạn chế, yếu kém, cả trước mắt lẫn lâu dài, của nền kinh tế để giữ vững đà phục hồi, tăng trưởng nhanh và bền vững, thực chất hơn; tạo chuyển biến mạnh hơn trong việc thực hiện các đột phá chiến lược, cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng; nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế(17).

Chính sách kinh tế phải thống nhất với chính sách xã hội, lấy sự phát triển toàn diện của con người làm mục tiêu, là thước đo của sự phát triển. Chính vì vậy, phải thực hiện tốt chính sách xã hội, có chính sách cụ thể phát triển văn hoá vùng đồng bào dân tộc thiểu số; tạo chuyển biến mạnh mẽ trong quản lý, phát triển xã hội, từng bước thu hẹp sự chênh lệch về thu nhập, khoảng cách giàu nghèo giữa các vùng, miền; phát triển kinh tế luôn đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống và chỉ số hạnh phúc của con người Việt Nam.

Thứ tư, tiếp tục đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh. Đất nước ta đang đứng trước nhiều thuận lợi, thời cơ, nhưng phải đối diện với muôn vàn khó khăn, thử thách; vì thế, nhiều vấn đề mới xuất hiện đòi hỏi Đảng ta phải giải quyết phù hợp với niềm tin và sự kỳ vọng của cán bộ, đảng viên, nhân dân vào những quyết sách đúng đắn, mạnh mẽ của Đảng vì mục tiêu phát triển đất nước nhanh và bền vững. Vì vậy, công tác xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa được coi là một trong những nhiệm vụ quan trọng của công cuộc đổi mới. Đổi mới phương thức lãnh đạo nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng; xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, nhất là cán bộ cấp chiến lược có đầy đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ; làm tốt công tác tư tưởng, lý luận và chú trọng công tác bảo vệ Đảng, bảo vệ chính trị nội bộ thông qua việc đẩy mạnh thực hiện công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật của Đảng; kiên quyết bài trừ tệ tham ô, tham nhũng, lãng phí, quan liêu để giữ vững sự trong sạch, vững mạnh của Đảng và niềm tin của quần chúng nhân dân đối với Đảng. Ngoài ra, phải nâng cao năng lực hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội để không ngừng củng cố và phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu mà Đảng và Nhà nước đề ra.

Thứ năm, thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển. Tổ chức thật tốt các hoạt động đối ngoại, nhất là đối ngoại cấp cao; chủ động, tích cực, làm sâu sắc, thực chất hơn nữa quan hệ với các đối tác; đẩy mạnh đối ngoại đa phương; giữ vững đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế; chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng, lấy lợi ích quốc gia, dân tộc là trên hết, trước hết. Triển khai thực hiện có hiệu quả các hiệp định thương mại đã ký kết, tranh thủ tối đa lợi ích mà các hiệp định này có thể đem lại(18).

Thứ sáu, kiên quyết, kiên trì bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa. Tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh; nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động đối ngoại, hội nhập quốc tế; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước. Bảo đảm an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, an ninh kinh tế, an ninh mạng, an ninh con người, xây dựng xã hội trật tự, kỷ cương. Chủ động ngăn ngừa nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa; phát hiện sớm và xử lý kịp thời những nhân tố bất lợi, nhất là những nhân tố có thể gây đột biến; nâng cao cảnh giác, kiên quyết đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hoạt động chống phá Đảng, Nhà nước của các thế lực thù địch./.

TS ĐINH NGỌC QUÝ
Phó Viện trưởng Viện Hồ Chí Minh và Các lãnh tụ của Đảng,
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

-------------------------

(1) Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2006, t. 47, tr. 807
(2) Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2002, t. 50, tr. 610
(3) Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2007, t. 51, tr. 87
(4) Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2016, t. 64, tr. 68
(5) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 109
(6) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2006, t. 2, tr. 284
(7) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 15, tr. 617
(8) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 4, tr. 65
(9) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 10, tr. 378
(10) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 12, tr. 402
(11) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 6, tr. 232
(12) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 15, tr. 617
(13) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 2, tr. 289
(14) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 10, tr. 377
(15) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 25
(16), (17) Xem: Nguyễn Phú Trọng: “Phát huy những kết quả và bài học kinh nghiệm đã có; tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa công cuộc đổi mới, tranh thủ mọi thời cơ, thuận lợi; vượt qua mọi khó khăn, thách thức; quyết tâm thực hiện thắng lợi toàn diện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng”, Tạp chí Cộng sản, số 1.014, tháng 5-2023, tr. 18 - 19, 18
(18) Xem: Nguyễn Phú Trọng: “Phát huy những kết quả và bài học kinh nghiệm đã có; tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa công cuộc đổi mới, tranh thủ mọi thời cơ, thuận lợi; vượt qua mọi khó khăn, thách thức; quyết tâm thực hiện thắng lợi toàn diện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng”, Tlđd, tr. 19