22/12/2024 lúc 22:07 (GMT+7)
Breaking News

Củng cố và tăng cường hơn nữa mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân trong tình hình mới

“Củng cố và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, giữ vững độc lập, thống nhất của Tổ quốc, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội”(1) là chủ trương lớn của Đảng.

Trong tình hình mới, để tạo sức mạnh, động lực đưa đất nước tiếp tục phát triển nhanh, bền vững, nhiệm vụ quan trọng hàng đầu là phải củng cố và tăng cường hơn nữa mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân.

Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng dự Ngày hội Đại đoàn kết tại Làng văn hóa Thượng Điện, xã Vinh Quang, huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng, ngày 17/11/2020. Ảnh: Báo Đại Đoàn Kết

1- Trong chế độ chính trị xã hội chủ nghĩa, “mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân là mối quan hệ giữa các chủ thể thống nhất về mục tiêu và lợi ích; mọi đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật và hoạt động của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân, lấy hạnh phúc của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu(2). Nhìn lại chặng đường lịch sử của cách mạng Việt Nam trong suốt hơn 93 năm qua, có thể khẳng định, mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân luôn là mối quan hệ gắn bó mật thiết, là yếu tố quyết định tạo nên sức mạnh to lớn, làm nên những thắng lợi vĩ đại của cách mạng Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc. Nhân dân ta đã một lòng theo Đảng, trải qua bao khó khăn, gian khổ, hy sinh để bảo vệ nền độc lập dân tộc và chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc.

Mục tiêu lý tưởng của Đảng là vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội (CNXH) và hạnh phúc của nhân dân. Cán bộ, đảng viên của Đảng vừa là người lãnh đạo, vừa là người “đày tớ” trung thành của nhân dân. Mục tiêu phấn đấu của người vào Đảng không phải là để thăng quan, tiến chức, mà là để phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân; “việc gì có lợi cho dân phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân phải hết sức tránh”(3).

Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn quan tâm chăm lo quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân, luôn “đặt lợi ích của quốc gia - dân tộc, nhân dân lên trên hết, trước hết”(4); luôn coi trọng việc lắng nghe, nắm bắt tình hình và giải quyết nguyện vọng, kiến nghị hợp pháp, chính đáng, vấn đề bức xúc của nhân dân; góp phần tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân và phát huy vai trò của nhân dân tham gia xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh. Nhờ đó, niềm tin của nhân dân đối với Đảng ngày càng được củng cố, tăng cường; vị thế, uy tín, năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng không ngừng được nâng lên ngang tầm với yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng trong tình hình mới. Mối quan hệ tốt đẹp, gắn bó mật thiết giữa Đảng với nhân dân chính là tiền đề, điều kiện và là nguồn sức mạnh, động lực để cách mạng nước ta vượt qua mọi khó khăn, thách thức, đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Đặc biệt, sau hơn 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới và hơn 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991), nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện so với những năm trước đổi mới. Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện rõ rệt. “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”(5). Đây là niềm tự hào, là động lực, nguồn lực quan trọng, là niềm tin để toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta vượt qua mọi khó khăn, thách thức, tiếp tục vững bước trên con đường đổi mới toàn diện, đồng bộ; phát triển nhanh và bền vững đất nước; đồng thời, ngày càng củng cố, thắt chặt hơn nữa mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa Đảng với nhân dân.

Bên cạnh những thành tựu đạt được, trong quá trình lãnh đạo, Đảng ta thẳng thắn thừa nhận vẫn còn mắc một số hạn chế, khuyết điểm. Một số cấp ủy, tổ chức đảng còn xem nhẹ công tác dân vận, chưa thực sự tôn trọng ý kiến, kiến nghị của nhân dân và chưa giải quyết kịp thời quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân. Quyền làm chủ của nhân dân có lúc, có nơi còn bị vi phạm; vẫn còn biểu hiện dân chủ hình thức, tách rời dân chủ với kỷ cương, pháp luật. “Việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên chưa thường xuyên, một số suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; vẫn còn tình trạng nói không đi đôi với làm; không tuân thủ nguyên tắc của Đảng; quan liêu, tham nhũng, lãng phí, cá nhân chủ nghĩa, cơ hội, thực dụng, bè phái, gây mất đoàn kết nội bộ; chưa nêu cao ý thức trách nhiệm trước tổ chức, cơ quan, đơn vị, địa phương và nhân dân”(6). Bên cạnh đó, một bộ phận người dân, do nhận thức còn hạn chế, bị kẻ xấu xúi giục, lôi kéo, kích động nói xấu, xuyên tạc đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; lợi dụng chiêu bài “dân chủ” hòng chống phá Đảng, chính quyền... Những hạn chế, khuyết điểm đó không chỉ làm suy giảm năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu, vị thế, uy tín của Đảng, mà còn ảnh hưởng tiêu cực đến niềm tin của nhân dân đối với Đảng, gây tổn hại đến mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân.

2- Trong những năm tới, tình hình thế giới tiếp tục có những diễn biến rất nhanh, phức tạp, khó dự báo. Sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta đứng trước nhiều khó khăn, thách thức: Bốn nguy cơ mà Đảng đã chỉ ra vẫn còn tồn tại, có mặt gay gắt hơn; các mối đe dọa đến độc lập, chủ quyền, lợi ích chiến lược của đất nước, nhất là trên Biển Đông; vấn đề an ninh phi truyền thống, biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường, dịch bệnh, cạn kiệt tài nguyên, xu hướng già hóa dân số; tình trạng suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; sự chống, phá quyết liệt của các thế lực thù địch, các tổ chức phản động... Trước tình hình đó, việc tiếp tục củng cố, tăng cường hơn nữa mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa Đảng với nhân dân càng trở nên quan trọng và cấp thiết. Để tăng cường mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa Đảng với nhân dân trong tình hình mới, cần thực hiện một số giải pháp chủ yếu sau:

Một làtiếp tục đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng.

Đây là giải pháp quan trọng hàng đầu để bảo đảm Đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh, giữ vững vị thế của Đảng trong sự nghiệp cách mạng của dân tộc, nâng cao uy tín lãnh đạo của Đảng. Thường xuyên xây dựng và chỉnh đốn về mọi mặt chính là quy luật tồn tại và phát triển của một đảng cách mạng chân chính. Đảng phải luôn đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xem đó là nhiệm vụ then chốt, có ý nghĩa quyết định đến sự tồn vong của Đảng và củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng, với chế độ; do đó, phải tăng cường xây dựng Đảng cả về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ.

Trong tình hình hiện nay, phải tiếp tục thực hiện quyết liệt, hiệu quả mục tiêu, nhiệm vụ công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng mà Đại hội XIII của Đảng đã đề ra; theo đó, phải kết hợp chặt chẽ và hiệu quả giữa xây dựng với chỉnh đốn Đảng; giữa xây dựng Đảng với bảo vệ Đảng. Không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng; tăng cường xây dựng Đảng về chính trị; hết sức coi trọng xây dựng Đảng về tư tưởng. Kiên định, vững vàng trên nền tảng chủ nghĩa Mác##- Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH, đường lối đổi mới, thực hiện nghiêm các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng. Tăng cường giáo dục truyền thống văn hóa, lịch sử cách mạng vẻ vang của Đảng và dân tộc; không ngừng nâng cao trình độ lý luận chính trị cho cán bộ, đảng viên; thường xuyên đấu tranh, ngăn chặn âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, phản động, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng(7). Tập trung xây dựng Đảng trong sạch về đạo đức, tích cực đấu tranh phòng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực; ngăn chặn, đẩy lùi có hiệu quả tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ gắn với đẩy mạnh học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; phát huy thật tốt trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên theo phương châm “chức vụ càng cao, càng phải gương mẫu”. Thường xuyên đổi mới, nâng cao chất lượng tổ chức cơ sở đảng và đội ngũ đảng viên. Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, người đứng đầu đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, ngang tầm nhiệm vụ; luôn gương mẫu trong thực hiện nguyên tắc, kỷ luật của Đảng và pháp luật của Nhà nước, dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn, thử thách và quyết liệt trong hành động vì lợi ích của quốc gia - dân tộc và của nhân dân.

Hai làphát huy quyền làm chủ của nhân dân trong xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh.

Đây là giải pháp rất quan trọng, vừa góp phần củng cố, tăng cường mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa Đảng với nhân dân, vừa phát huy trí tuệ, sức mạnh của nhân dân trong công tác xây dựng Đảng, trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Do đó, yêu cầu cấp thiết đặt ra là tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, phát huy ý chí, sức mạnh của toàn dân tộc, sự thống nhất giữa “ý Đảng” với “lòng Dân”. Trong mọi công việc, toàn Đảng, tổ chức đảng, đảng viên phải luôn quán triệt sâu sắc, thực hiện nghiêm túc quan điểm “dân là gốc”, thật sự tin tưởng, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, luôn đặt nhân dân ở trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Mọi chủ trương, chính sách của Đảng phải thực sự xuất phát từ nhu cầu, nguyện vọng, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân; thắt chặt mối quan hệ mật thiết với nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng; lấy hạnh phúc, ấm no của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu. Cán bộ, đảng viên phải “gần dân”, “sát dân”, “trọng dân”, luôn hết lòng phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Chỉ như vậy, mới có thể củng cố vững chắc “thế trận lòng dân”, tăng cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa.

Tiếp tục cụ thể hóa, hoàn thiện thể chế thực hành dân chủ, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Thực hiện đúng đắn, hiệu quả dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện, đặc biệt là dân chủ ở cơ sở. Thực hiện tốt, hiệu quả phương châm: “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”(8). Phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, vai trò nòng cốt của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội để nhân dân làm chủ. Cấp ủy, tổ chức đảng, các tổ chức trong hệ thống chính trị, đội ngũ đảng viên, cán bộ, công chức, viên chức nêu gương thực hành dân chủ, tuân thủ pháp luật, để tạo sự lan tỏa trong xã hội. Đảng và Nhà nước ban hành đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật tạo nền tảng chính trị, pháp lý, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền làm chủ của nhân dân. Đề cao vai trò chủ thể, vị trí trung tâm của nhân dân trong chiến lược phát triển đất nước, trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Phát huy tính tích cực chính trị - xã hội, trí tuệ, quyền và trách nhiệm của nhân dân trong tham gia xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội, xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ. Đồng thời, kiên quyết chống các biểu hiện dân chủ cực đoan, dân chủ hình thức; xử lý kịp thời, nghiêm minh tổ chức, cá nhân lợi dụng “dân chủ” nhằm gây rối nội bộ, làm mất ổn định chính trị - xã hội hoặc vi phạm dân chủ, phương hại đến quyền làm chủ của nhân dân, đến mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân.

Ba là, thường xuyên quan tâm, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.

Đây là giải pháp quan trọng, trực tiếp góp phần củng cố, tăng cường mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân; bởi lẽ, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân là sứ mệnh của Đảng, là mục tiêu và bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa. Sinh thời, Chủ tịch

Hồ Chí Minh luôn căn dặn Đảng ta rằng, chăm lo đời sống của nhân dân chính là làm cho nhân dân được thực hiện nghĩa vụ và hưởng thụ quyền lợi trong một xã hội tiến bộ và công bằng, với hành lang pháp lý đầy đủ và ngày càng hoàn thiện, để nhân dân thực sự là người chủ trong xã hội mới. Vì vậy, “Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân(9).

Trong thời gian tới, Đảng, Nhà nước cần tiếp tục lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện tốt chính sách xã hội, bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội, an ninh con người, tạo chuyển biến mạnh mẽ trong quản lý phát triển xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội để nâng cao chất lượng cuộc sống và hạnh phúc của nhân dân. Tiếp tục triển khai đồng bộ các giải pháp xóa đói, giảm nghèo đa chiều, bao trùm, bền vững. Phát triển hệ thống bảo hiểm xã hội linh hoạt, đa dạng, đa tầng, hiện đại. Bảo đảm cung cấp và nâng cao khả năng tiếp cận dịch vụ xã hội cơ bản cho mọi đối tượng, nhất là đối với người nghèo, người yếu thế trong xã hội; quan tâm chăm sóc, bảo vệ sức khỏe của nhân dân; chú trọng nâng cao chất lượng dịch vụ y tế, chất lượng dân số. Xây dựng môi trường văn hóa, đạo đức xã hội lành mạnh, văn minh, bảo đảm chính sách lao động, việc làm, thu nhập, thực hiện tốt phúc lợi xã hội, an sinh xã hội, góp phần không ngừng cải thiện toàn diện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.

Bốn làtăng cường quản lý, giáo dục, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên.

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Đảng mạnh là do chi bộ tốt. Chi bộ tốt là do các đảng viên đều tốt”(10). Đảng ta là một khối thống nhất, bao gồm hàng triệu đảng viên; chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên quyết định chất lượng, hiệu quả hoạt động, vị thế, uy tín của Đảng trước nhân dân. Thực tế cho thấy, khi nào cán bộ, đảng viên tốt thì Đảng mạnh, cách mạng thắng lợi, niềm tin của nhân dân với Đảng được củng cố, tăng cường; trái lại, khi nào trong Đảng có nhiều cán bộ, đảng viên yếu kém thì năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng giảm sút, cách mạng gặp khó khăn, niềm tin của nhân dân đối với Đảng bị suy giảm. Nghị quyết số 21-NQ/TW, ngày 16-6-2022, của Hội nghị Trung ương 5 khóa XIII, “Về tăng cường củng cố xây dựng tổ chức cơ sở đảng và nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên trong giai đoạn mới”, nhấn mạnh: Đội ngũ đảng viên là nhân tố quyết định năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng. Tạo môi trường để đảng viên rèn luyện, phấn đấu, đồng thời mỗi đảng viên phải tự ý thức học tập, rèn luyện nhân cách, đạo đức, phong cách, không ngừng nâng cao bản lĩnh chính trị, tiên phong, gương mẫu, thực hiện nghiêm các nguyên tắc của Đảng và lời thề khi vào Đảng; tăng cường mối quan hệ mật thiết với nhân dân và chịu sự giám sát của nhân dân. Coi trọng chất lượng phát triển đảng viên, quan tâm phát triển đảng viên trong đoàn viên thanh niên và công đoàn, hội viên ưu tú, quần chúng tiêu biểu, nhất là ở địa bàn khó khăn, miền núi, biên giới, hải đảo, khu vực kinh tế ngoài nhà nước, vùng dân tộc thiểu số. Thường xuyên rà soát, sàng lọc, kiên quyết đưa đảng viên không còn đủ tư cách ra khỏi Đảng.

Trước yêu cầu nhiệm vụ cách mạng, yêu cầu công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và củng cố mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa Đảng với nhân dân, các cấp ủy, tổ chức đảng phải thường xuyên quản lý, giáo dục, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên. Tăng cường giáo dục chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng

Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng; qua đó, nâng cao nhận thức chính trị, kiên định mục tiêu, lý tưởng cách mạng, hết lòng, hết sức phấn đấu, hy sinh vì độc lập dân tộc và CNXH, vì hạnh phúc của nhân dân. Đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh một cách chặt chẽ, thiết thực, hiệu quả, để làm cho mỗi cán bộ, đảng viên thực sự có bước chuyển biến căn bản về nhận thức và hành động, quyết tâm “tự soi, tự sửa” mình theo tấm gương của Bác. Tăng cường rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên trong hoạt động thực tiễn; chú trọng rèn luyện phương pháp công tác, phong cách làm việc “trọng dân, gần dân, tin dân, hiểu dân, học dân, dựa vào dân và có trách nhiệm với dân”(11). Đồng thời, thường xuyên thực hiện nghiêm nền nếp, chế độ tự phê bình và phê bình, để mỗi cán bộ, đảng viên tự tu dưỡng, giúp nhau cùng tiến bộ và củng cố đoàn kết nội bộ. Tổ chức đảng, tập thể lãnh đạo và người đứng đầu thường xuyên làm tốt công tác quản lý, nắm chắc tình hình tư tưởng, thái độ làm việc, các mối quan hệ xã hội, lối sống, hoàn cảnh gia đình và tài sản... của cán bộ, đảng viên trong phạm vi mình quản lý để chủ động ngăn ngừa hành vi tiêu cực, những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Kiên quyết đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực; xử lý nghiêm minh theo pháp luật cán bộ, đảng viên suy thoái, biến chất, không còn xứng đáng đứng trong hàng ngũ của Đảng, đánh mất niềm tin yêu của nhân dân.

Năm là, nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hành động chia rẽ, phá hoại mối quan hệ đoàn kết, gắn bó mật thiết giữa Đảng với nhân dân.

Trải qua hơn 93 năm xây dựng và lãnh đạo cách mạng Việt Nam, củng cố, thắt chặt mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa Đảng với nhân dân luôn là phương châm hành động, nhiệm vụ trọng yếu và là bài học kinh nghiệm mang lại sức mạnh to lớn cho Đảng, là cội nguồn cho mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Song, cũng vì thế, mối quan hệ này luôn bị các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị tìm mọi cách chia rẽ, phá hoại. Một mặt, chúng ra sức tuyên truyền, bôi nhọ, hạ thấp uy tín của Đảng; xuyên tạc cương lĩnh chính trị, quan điểm, đường lối, nền tảng tư tưởng của Đảng; phủ nhận và đòi xóa bỏ vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, kích động “đa nguyên chính trị”, “đa đảng đối lập” ở Việt Nam, mua chuộc, dụ dỗ, lôi kéo hòng làm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”..., làm mất lòng tin của nhân dân đối với Đảng và chế độ; mặt khác, chúng tìm mọi cách mua chuộc, dụ dỗ, lôi kéo một bộ phận nhân dân, do nhẹ dạ, thiếu hiểu biết, hoặc non kém về chính trị, lệch lạc về tư tưởng... thực hiện hành vi chống phá Đảng, chính quyền.

Thực tiễn lịch sử cách mạng Việt Nam, nhất là từ khi Đảng ta ra đời đến nay, đã khẳng định rằng, lịch sử dân tộc và nhân dân ta đã lựa chọn Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo, dẫn dắt dân tộc đi trên con đường vì độc lập, tự do, ấm no, hạnh phúc của nhân dân; và mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân mãi mãi là mối quan hệ thống nhất, vững bền. Vì vậy, chúng ta cần đặc biệt cảnh giác với các âm mưu, thủ đoạn nhằm chia rẽ, phá hoại mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị hiện nay. Theo đó, yêu cầu đặt ra là tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục làm cho mọi cán bộ, đảng viên và nhân dân nhận thức sâu sắc về vị trí, vai trò, sự cần thiết phải chăm lo củng cố, tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân; nhận diện âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị hòng chia rẽ, phá hoại mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa Đảng với nhân dân, cũng như những nguy cơ đe dọa, làm tổn hại đến mối quan hệ này; từ đó, đề cao tinh thần cảnh giác, tích cực đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị và củng cố vững chắc mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân.

Thực hiện tốt các giải pháp trên sẽ góp phần quan trọng trong xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ; nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu, vị thế, uy tín của Đảng; đồng thời, củng cố vững chắc mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân, tạo tiền đề, nền tảng vững chắc, động lực mạnh mẽ đưa sự nghiệp đổi mới đất nước tiếp tục giành được những thắng lợi mới./.

PGS, TS PHẠM THANH GIANG
Đại tá, Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng

-------------------

(1) Nghị quyết số 23-NQ/TW, ngày 12-3-2003, của Hội nghị Trung ương 7 khóa IX, “Về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”
(2) Nguyễn Phú Trọng: “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”, Tạp chí Cộng sản, số 966, tháng 5-2021, tr. 9
(3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 4, tr. 51
(4) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. II, tr. 226
(5) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 104
(6) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. II, tr. 178 – 179
(7) Xem: Nghị quyết số 35-NQ/TW, ngày 22-10-2018, của Bộ Chính trị khóa XII, “Về tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới”.
(8) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 173
(9) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 15, tr. 612
(10) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 15, tr. 113
(11) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. II, tr. 248