Trong nhiệm kỳ 2021-2021 tại Hội đồng Bảo an, Việt Nam không chỉ giải quyết các vấn đề quốc tế-xuyên quốc gia-toàn cầu mà còn đưa ra các vấn đề khu vực như Biển Đông - tiếng nói chung của ASEAN.
Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc phát biểu tại Phiên thảo luận cấp cao Đại hội đồng LHQ khóa 73 (tháng 9/2018) (Ảnh: TTXVN)
Trang thepeninsula.org.in (Ấn Độ) vừa có bài viết trong đó nêu rõ lãnh đạo và nhân dân Việt Nam có lý do để ăn mừng việc đất nước mình hoàn thành xuất sắc vai trò Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc (UNSC) nhiệm kỳ 2020 và 2021.
Trước khi nhận nhiệm vụ tại UNSC, Việt Nam đã thông báo rằng sẽ “tận dụng tối đa hai năm nhiệm kỳ để góp phần nâng cao tính hiệu quả của Hội đồng Bảo an, thúc đẩy đối thoại để giúp tìm ra giải pháp hòa bình cho các cuộc xung đột và đưa tiếng nói của các nước nhỏ vào công việc của hội đồng,” đặc biệt tập trung vào “ngăn ngừa xung đột, ngoại giao phòng ngừa, giải quyết hòa bình các tranh chấp và tăng cường thực hiện Chương VI của Hiến chương Liên hợp quốc.”
Xét trên mọi khía cạnh, Việt Nam đã đạt được tất mục tiêu đã đặt ra bất chấp những diễn biến phực tạp và không thể đoán trước của tình hình kinh tế xã hội, chính trị và an ninh cũng như những thách thức chưa từng có, bao gồm cả tác động sâu rộng của đại dịch COVID-19.
Trong quãng thời gian nói trên, Việt Nam đã hai lần đảm nhiệm cương vị Chủ tịch Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc vào tháng 1/2020 và tháng 4/2021.
Việt Nam đã dẫn dắt một số sự kiện và sáng kiến, và những sáng kiến này đều đã được các thành viên khác của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc thừa nhận.
Thủ tướng Phạm Minh Chính phát biểu tại Phiên thảo luận mở Cấp cao của Hội đồng Bảo an LHQ về chủ đề "Thúc đẩy An ninh Biển và Một số lĩnh vực hợp tác quốc tế" tháng 8/2021. (Ảnh: Dương Giang/TTXVN)
Trên hết, chúng đã nhận được phản hồi tích cực. Một số đề xuất quan trọng do Việt Nam dẫn dắt gồm:
Hai nghị quyết về việc bổ nhiệm lại công tố viên và rà soát hai năm hoạt động của “Cơ chế tồn dư quốc tế của các tòa án hình sự” (IRMCT) và về bảo vệ cơ sở hạ tầng thiết yếu;
Ba tuyên bố của Chủ tịch nước Việt Nam về việc tôn trọng Hiến chương Liên hợp quốc, tăng cường mối quan hệ giữa Liên hợp quốc và các tổ chức khu vực trong việc thúc đẩy xây dựng lòng tin và giải quyết hậu quả của bom mìn; Một tuyên bố báo chí về vụ tấn công khủng bố ở Indonesia; Tuyên bố Hà Nội về phụ nữ, hòa bình và an ninh.
Việt Nam cũng thúc đẩy các vấn đề liên quan đến gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc và kêu gọi cộng đồng quốc tế “ứng phó và giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu đối với hòa bình và an ninh quốc tế.”
Việt Nam cũng ủng hộ các vấn đề do các thành viên không thường trực khác của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nêu ra.
Chẳng hạn, Thủ tướng Phạm Minh Chính ủng hộ Năm Nguyên tắc của Thủ tướng Ấn Độ Modi và đảm bảo rằng Việt Nam “cam kết hợp tác với Ấn Độ và các thành viên khác trong Hội đồng Bảo an về việc thúc đẩy đối thoại, hợp tác và tôn trọng lẫn nhau, vì hòa bình và thịnh vượng toàn cầu.”
Ông cũng đưa ra ba đề xuất, bao gồm: Sử dụng bền vững các đại dương và biển cả; An ninh hàng hải toàn diện và tổng thể thông qua “hợp tác, đối thoại và luật pháp quốc tế” và do Liên hợp quốc lãnh đạo; Duy trì các nghĩa vụ pháp lý phù hợp với luật pháp quốc tế, đặc biệt là Hiến chương holistic và UNCLOS 1982.
Liên quan đến Công ước UNCLOS 1982, Thủ tướng Chính phủ cho biết Việt Nam “quyết tâm” cùng ASEAN và Trung Quốc “thực hiện nghiêm túc, đầy đủ và hiệu quả Tuyên bố ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) năm 2002 và đàm phán một Bộ Quy tắc ứng xử của các bên ở Biển Đông (COC) hiệu quả và thực chất, phù hợp với luật pháp quốc tế, đặc biệt là UNCLOS 1982.”
Trong suốt nhiệm kỳ trong vai trò thành viên không thường trực của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, Việt Nam đã đồng thời giữ chức Chủ tịch ASEAN năm 2020.
Việt Nam có thể được ghi nhận vì đã nêu ra vấn đề về Biển Đông tại Liên hợp quốc. Trong thông điệp gửi tới Cuộc tranh luận chung cấp cao của Đại hội đồng Liên hợp quốc, Chủ tịch nước thời điểm đó, ông Nguyễn Phú Trọng, đã bày tỏ rằng Việt Nam cam kết “duy trì và thúc đẩy hòa bình, ổn định, an ninh, an toàn hàng hải và tự do hàng hải ở Biển Đông” và tôn trọng luật pháp quốc tế, đặc biệt là UNCLOS năm 1982; nhấn mạnh và kêu gọi “tất cả các bên liên quan thực hiện kiềm chế, tránh các hành vi đơn phương làm phức tạp tình hình và giải quyết các tranh chấp và khác biệt thông qua các biện pháp hòa bình, tôn trọng các quy trình về ngoại giao và pháp lý.”
Không ngạc nhiên khi Bắc Kinh đã có phản ứng và người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc tuyên bố rằng “Hội đồng Bảo an không phải là nơi thích hợp để thảo luận về vấn đề Biển Đông.”
Về bản chất, Việt Nam đã không chỉ giải quyết các vấn đề quốc tế-xuyên quốc gia-toàn cầu tại Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc mà còn đưa ra các vấn đề khu vực như Biển Đông, là tiếng nói chung của ASEAN cũng như các nước có yêu sách.
Đây là một lợi thế lớn về chính trị-ngoại giao đối với ASEAN và Việt Nam đã củng cố được uy tín quốc tế không chỉ với tư cách là một thành viên quan trọng trong khu vực mà còn là một chủ thể quốc tế có trách nhiệm, tập trung vào Chương VI và Chương VIII của Hiến chương Liên hợp quốc./.