18/09/2024 lúc 16:34 (GMT+7)
Breaking News

Chính sách tiền tệ phải tập trung tháo gỡ khó khăn cho sản xuất, kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng và ổn định kinh tế vĩ mô

Chính sách tiền tệ quốc gia là các quyết định về tiền tệ ở tầm quốc gia của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, bao gồm quyết định mục tiêu ổn định giá trị đồng tiền biểu hiện bằng chỉ tiêu lạm phát, quyết định sử dụng các công cụ và biện pháp để thực hiện mục tiêu đề ra.

Nói đến tiền là nói đến sự ổn định của tiền, mà sự ổn định của tiền liên quan mật thiết và chịu sự ràng buộc bởi hoạt động của toàn hệ thống ngân hàng. Thông qua các thao tác của mình, Ngân hàng Trung ương (NHTW) có thể làm thay đổi tiền tệ trên tất cả các mặt: lưu lượng, chi phí, giá trị… Toàn bộ các thao tác có liên quan đến tiền của NHTW luôn nằm trong hệ thống những kế hoạch mang tính chiến lược, được gọi là chính sách tiền tệ (CSTT).

Liên quan đến chính sách tiền tệ: Quốc hội quyết định chỉ tiêu lạm phát hằng năm được thể hiện thông qua việc quyết định chỉ số giá tiêu dùng và giám sát việc thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia. Chủ tịch nước thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn do Hiến pháp và pháp luật quy định trong việc đàm phán, ký kết, gia nhập điều ước quốc tế nhân danh Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về lĩnh vực tiền tệ và ngân hàng. Chính phủ trình Quốc hội quyết định chỉ tiêu lạm phát hằng năm. Thủ tướng Chính phủ, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước quyết định việc sử dụng các công cụ và biện pháp điều hành để thực hiện mục tiêu chính sách tiền tệ quốc gia theo quy định của Chính phủ.

Kết quả và thách thức trong điều hành CSTT

Nhìn lại năm 2023 cho thấy, kinh tế Việt Nam đứng trước nhiều khó khăn, thách thức đến từ cả thị trường quốc tế và trong nước. Lạm phát kéo dài tại nhiều quốc gia trên thế giới do ảnh hưởng từ sức cầu tăng đột biến giai đoạn hậu Covid-19, các CSTT thắt chặt nhằm đối phó lạm phát với lãi suất bị kéo cao, chuỗi cung ứng đứt gãy khi Trung Quốc mở cửa kinh tế muộn sau đại dịch Covid-19, xung đột Nga - Ukraine ảnh hưởng tới nguồn cung năng lượng… là những cản trở làm suy giảm đầu tư và giảm giá tài sản trên toàn cầu, khiến phục hồi kinh tế thế giới bị chững lại.

Tại Việt Nam, đầu tư khu vực tư nhân và khu vực nhà nước dù đã có dấu hiệu phục hồi nhưng chưa đạt được những yêu cầu đề ra, mặt bằng lãi suất giảm nhưng sức cầu tín dụng sản xuất yếu…, lại không được hỗ trợ bởi khu vực quốc tế khi triển vọng xuất khẩu và thu hút vốn đầu tư không mấy khả quan, làm tổng cầu trong nước sụt giảm.
 Trước bối cảnh đó, nhằm đạt được một số thành công nhất định trong việc duy trì đà tăng trưởng, kiểm soát được lạm phát và ổn định giá trị tiền tệ, NHNN đã chủ động, linh hoạt điều hành CSTT, phối hợp đồng bộ với chính sách tài khóa và các chính sách vĩ mô khác.

Mặc dù trong năm 2023 NHNN đã thực hiện việc chuyển sang CSTT nới lỏng thông qua việc liên tục giảm lãi suất điều hành nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp cũng như nền kinh tế phục hồi sau đại dịch, tuy nhiên do được kiểm soát tốt nên lạm phát vẫn được duy trì ở mức phù hợp. CPI năm 2023 tăng 3,25%, phù hợp với mục tiêu Chính phủ đã đề ra.
 Về lãi suất. NHNN liên tục giảm 04 lần lãi suất điều hành trong bối cảnh lãi suất thế giới tiếp tục tăng và neo ở mức cao với mức giảm 0,5 - 2%/năm trong năm 2023. Việc liên tục điều chỉnh giảm các mức lãi suất điều hành được đánh giá là giải pháp linh hoạt, phù hợp với điều kiện thị trường, giúp hỗ trợ hoạt động sản xuất, kinh doanh thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Giảm lãi suất điều hành đã có sự lan tỏa tích cực đến lãi suất trên thị trường.
Bên cạnh những thành công đã đạt được, việc điều hành CSTT vẫn còn những khó khăn, thách thức cần vượt qua trong thời gian tới. 
 Tuy đã có dấu hiệu khởi sắc trong quý IV/2023, nhưng kết quả tăng trưởng tín dụng cả năm 2023 chưa hoàn thành mục tiêu đã định. Tính đến ngày 31/12/2023, tăng trưởng tín dụng của toàn hệ thống ghi nhận ở mức 13,71%, thấp hơn so với chỉ tiêu định hướng là 14%. Mức tăng trưởng tín dụng thấp trong năm qua thể hiện khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế nhìn chung còn yếu. Bên cạnh đó, hệ thống ngân hàng vẫn đang phải đối mặt với áp lực nợ xấu gia tăng. Xét 27/29 NHTM niêm yết trên sàn chứng khoán, tỉ lệ nợ xấu trong quý III/2023 tăng từ 2,09% lên 2,24%. Tỉ lệ nợ xấu trong năm 2024 dự kiến sẽ còn tăng mạnh hơn, khi Thông tư số 02/2023/TT-NHNN ngày 09/8/2023 của NHNN về việc tổ chức tín dụng (TCTD), chi nhánh ngân hàng nước ngoài cơ cấu lại thời hạn trả nợ và giữ nguyên nhóm nợ nhằm hỗ trợ khách hàng gặp khó khăn hết hiệu lực khiến các khoản nợ được tái cơ cấu trong thời gian trước đó trở lại đúng nhóm nợ. Trong khi nợ xấu ngành Ngân hàng có xu hướng tăng thì tỉ lệ bao phủ nợ xấu (số dư dự phòng nợ xấu/tổng dư nợ xấu) ở một số các ngân hàng sụt giảm, do lợi nhuận không đạt kế hoạch. Bên cạnh đó, thị trường bất động sản, vốn là nguồn tài sản bảo đảm của phần lớn của khoản nợ chưa cho thấy những dấu hiệu phục hồi rõ ràng. Điều này khiến cho dư địa để xử lí nợ xấu của các NHTM trong năm 2024 bị thu hẹp đáng kể.

Định hướng về CSTT

Năm 2024 là năm tăng tốc, bứt phá, có ý nghĩa đặc biệt quan trọng với việc thực hiện thắng lợi Kế hoạch 5 năm 2021 - 2025. Ngày 02/5/2024 Thủ tướng Chính phủ đã ký ban hành Chỉ thị 14/CT-TTg về triển khai nhiệm vụ điều hành chính sách tiền tệ năm 2024, tập trung tháo gỡ khó khăn cho sản xuất, kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng và ổn định kinh tế vĩ mô.

Để đạt được mục tiêu đề ra trong điều kiện tình hình kinh tế thế giới có nhiều khó khăn và tác động ảnh hưởng đến nước ta, đòi hỏi quyết tâm, nỗ lực rất lớn của cả hệ thống chính trị, với các phương châm sau:

Phương châm "5 tăng" gồm: (1) Tăng khả năng tiếp cận và hấp thụ tín dụng, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các động lực tăng trưởng truyền thống và các động lực tăng trưởng mới; (2) Tăng cường tháo gỡ vướng mắc pháp lý và chất lượng tín dụng; (3) Tăng cường phối hợp chặt chẽ, hiệu quả giữa Nhà nước, ngân hàng, doanh nghiệp và năng lực quản trị điều hành của ngân hàng, của thị trường tài chính; (4) Tăng công khai, minh bạch về lãi suất huy động, cho vay và chống tín dụng đen; (5) Tăng cường giám sát, kiểm tra và phòng ngừa rủi ro, chống tham nhũng, tiêu cực.

Phương châm "5 giảm" gồm: (1) Giảm lãi suất cho vay ở mức hợp lý; (2) Giảm chi phí giao dịch, hoạt động; (3) Giảm thủ tục hành chính; (4) Giảm phiền hà, sách nhiễu; (5) Giảm tiêu cực, lợi ích nhóm, "sân sau"…;

Phương châm "5 tăng tốc, bứt phá" gồm: (1) Tăng tốc bứt phá về số hóa; (2) Tăng tốc bứt phá chất lượng dịch vụ; (3) Tăng tốc bứt phá về chất lượng nguồn nhân lực; (4) Tăng tốc bứt phá về hạ tầng ngân hàng; (5) Tăng tốc bứt phá về phục vụ sản xuất kinh doanh, tạo công ăn việc làm, sinh kế cho người dân, góp phần tăng trưởng kinh tế.

Quan điểm chỉ đạo điều hành xuyên suốt là: (1) Bám sát tình hình và yêu cầu thực tiễn, phản ứng chính sách kịp thời, hiệu quả; (2) Không chủ quan, kiên trì, kiên định, kiên quyết thực hiện được các mục tiêu chiến lược đề ra; (3) Không ngừng đổi mới, chủ động, linh hoạt, sáng tạo, nhanh chóng "xoay chuyển tình thế", "chuyển đổi trạng thái"; (4) Giữ vững đoàn kết, thống nhất, chung sức, đồng lòng.

Theo đó, định hướng nhằm duy trì CSTT hỗ trợ cho tăng trưởng giai đoạn 2024 - 2025 là lấy lại đà tăng trưởng kinh tế để đạt mục tiêu cả nhiệm kì. Vì vậy, trong năm 2024, CSTT được kì vọng sẽ duy trì nới lỏng để kích thích nền kinh tế tăng trưởng. 
Về lãi suất điều hành tại Việt Nam, mặc dù CSTT năm 2024 dự báo tiếp tục nới lỏng, song NHNN vẫn phải thận trọng trong việc hạ thêm lãi suất. Mặt bằng lãi suất huy động đang ở mức thấp kỷ lục, nên lãi suất giảm thêm có thể khiến dòng vốn huy động chảy sang các kênh đầu tư khác. Hơn nữa, tín dụng tăng chậm hiện nay có nguyên nhân chính không phải do lãi suất, mà chủ yếu do sức cầu của nền kinh tế yếu. Ngoài ra, với việc các hoạt động kinh tế đang được phục hồi và cải thiện, tỉ lệ lạm phát đang dần được kiểm soát, khả năng NHNN điều chỉnh mạnh về lãi suất trong năm sau là tương đối thấp. Đặc biệt, trong bối cảnh hiện nay, dư địa giảm lãi suất điều hành của NHNN còn khá ít, còn dư địa tăng lãi suất năm tới gần như không có bởi các NHTM đang dư thừa thanh khoản. Thực tế, Chính phủ đã chuyển trọng tâm sang các biện pháp phi lãi suất để hỗ trợ nền kinh tế. Do đó, lãi suất huy động, lãi suất cho vay sẽ được duy trì ổn định ở mức đủ tốt, tương tự như trước giai đoạn tăng lãi suất. Theo nhiều dự báo, NHNN có thể sẽ duy trì lãi suất chính sách ổn định ở mức 4,5% trong năm 2024 để hỗ trợ nền kinh tế tăng trưởng, phục hồi. 
Về tỉ giá, do áp lực tỉ giá năm 2024 không quá lớn, NHNN sẽ có cơ hội để gia tăng thêm quỹ dự trữ ngoại hối quốc gia, đồng thời thuận lợi hơn trong điều hành CSTT nới lỏng. Cùng với đó, cầu ngoại tệ trong nước dồi dào và CSTT của Mỹ cho thấy, Fed có thể chưa hạ lãi suất, nhưng cũng sẽ không tăng lãi suất thêm nữa, nên sẽ không gây áp lực làm dịch chuyển dòng vốn từ nước ngoài vào Mỹ. Điều này có tác động tích cực tới các thị trường mới nổi, trong đó có Việt Nam.

Về điều hành tín dụng, chính sách hạn mức tín dụng của NHNN tiếp tục duy trì linh hoạt như đã thực hiện trong năm 2023, khi NHNN dựa trên căn cứ chung về mức tín dụng để quyết định nếu ngân hàng nào đạt được tiêu chí đó thì cho phép chủ động tăng, chứ không ấn định hạn mức tín dụng với từng ngân hàng như trước đây.

Mặc dù cho đến nay, tình hình kinh tế khá ổn định, hoạt động của các ngân hàng có nhiều chuyển biến tích cực, lòng tin của người dân cũng đang dần dần được hồi phục, song trên thực tế, những tác động trái chiều của chính sách tiền tệ vẫn còn ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động của các ngân hàng và thông qua đó ảnh hưởng đến nền kinh tế... Vấn đề này cần được thảo luận một cách nghiêm túc, bởi lẽ ngân hàng là nơi cung cấp vốn - điều kiện đầu vào cho mọi quá trình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, nếu khả năng tiếp cận nguồn vốn ngân hàng gặp khó khăn, mọi hoạt động sản xuất kinh doanh sẽ không thể tiến hành bình thường được và như vậy, kinh tế khó có thể tăng trưởng.

Trong thời gian tới, việc điều hành CSTT cần tập trung vào các vấn đề sau:

1. Điều hành lãi suất phù hợp với diễn biến thị trường và mục tiêu CSTT; khuyến khích tổ chức tín dụng tiết giảm chi phí, nâng cao hiệu quả hoạt động để có điều kiện phấn đấu giảm lãi suất cho vay.

2. Điều hành tỷ giá linh hoạt, phối hợp đồng bộ các biện pháp và công cụ CSTT nhằm ổn định thị trường ngoại tệ, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, tăng dự trữ ngoại hối nhà nước khi điều kiện thị trường thuận lợi.

3. Điều hành tăng trưởng tín dụng an toàn, tạo điều kiện thuận lợi trong việc tiếp cận vốn tín dụng cho nền kinh tế; tập trung cho các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, nhất là lĩnh vực ưu tiên theo chủ trương của Chính phủ; định hướng cơ cấu tín dụng phù hợp với sự chuyển dịch cơ cấu của nền kinh tế, góp phần thúc đẩy tăng trưởng và phát triển bền vững; tiếp tục kiểm soát chặt chẽ tín dụng đối với lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro, kiểm soát tín dụng ngoại tệ phù hợp với lộ trình hạn chế đô-la hóa nền kinh tế theo chủ trương của Chính phủ.

4. Phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành trong việc trao đổi thông tin về điều hành kinh tế vĩ mô, hoạt động ngân hàng nhằm tạo sự thống nhất, đồng bộ trong thực thi các chính sách vĩ mô của Chính phủ. Tiếp tục đẩy mạnh hoạt động truyền thông chính sách, minh bạch hóa thông tin về tiền tệ, ngân hàng./.

Ths. Nguyễn Xuân Thăng

...