1. Dẫn nhập
Nhiều nhiệm kỳ Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng trong thời kỳ đổi mới đều đặc biệt nhấn mạnh vai trò động lực của nguồn nhân lực trong phát triển. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021 - 2030 được thông qua tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã nêu lên 3 đột phá chiến lược, trong đó đột phá chiến lược thứ hai chính là phát triển toàn diện nguồn nhân lực và những nội dung khác có liên quan: "Tiếp tục phát triển toàn diện nguồn nhân lực, khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo gắn với khơi dậy khát vọng phát triển đất nước, lòng tự hào dân tộc, ý chí tự cường và phát huy giá trị văn hóa, con người Việt Nam"[1]. Đại hội đặt ra yêu cầu bức thiết: "Chú trọng đào tạo nhân lực chất lượng cao, phát hiện và bồi dưỡng nhân tài, có chính sách vượt trội để thu hút, trọng dụng nhân tài, chuyên gia cả trong và ngoài nước. Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, công chức có phẩm chất tốt, chuyên nghiệp, tận tụy, phục vụ nhân dân"[2].
Chưa bao giờ yêu cầu phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao lại được đặt ra một cách cấp bách như hiện nay. Một trong những lý do chủ yếu xuất phát từ yêu cầu phát triển đất nước từ nay đến 2030, 2045, từ những tiến bộ chưa từng có của công nghệ do cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 đưa lại. Trong đội ngũ những người lao động đông đảo, lĩnh vực nào cũng cần nhân tài, những chuyên gia; trong đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, lại càng cần những con người như vậy: vừa là chính khách vừa là chuyên gia giỏi về một lĩnh vực nào đó.
Thực hiện thành công Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội nói chung, phát triển văn hóa nói riêng cũng đòi hỏi phải có nguồn nhân lực chất lượng cao, bởi vì văn hóa có vai trò ngày càng quan trọng, xếp ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội, là hồn cốt của dân tộc, soi đường cho quốc dân đi, văn hóa còn thì dân tộc còn... Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 9 tháng 6 năm 2014 của Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương khóa XI về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước đề cập một cách cụ thể: "Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, mục tiêu, động lực phát triển bền vững đất nước".
Tuy nhiên, không thể có đủ nguồn nhân lực, lại càng không thể có đủ nguồn nhân lực chất lượng cao nếu không có các chính sách phát triển nguồn nhân lực nói chung, nguồn nhân lực văn hóa nói riêng. Chính sách được xem là điều kiện, là "bà đỡ" mát tay để có được nguồn nhân lực chất lượng ngày càng cao đáp ứng yêu cầu của tình hình mới.
2. Thực trạng xây dựng và thực hiện chính sách phát triển nguồn nhân lực văn hóa ở nước ta thời gian qua
Nguồn nhân lực văn hóa chủ yếu bao gồm những cán bộ, công chức, viên chức, người lao động hoạt động trong lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật từ Trung ương đến các địa phương; là các văn nghệ sĩ, trí thức, nhà báo, nghệ nhân trực tiếp hoặc gián tiếp hoạt động văn hóa, nghệ thuật chuyên nghiệp hoặc không chuyên nghiệp.
Bước vào công cuộc đổi mới, nhất là từ khi có Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc (1998), chính sách phát triển nguồn nhân lực văn hóa được định hình ngày một rõ và cụ thể hơn. Về chính sách khuyến khích sáng tạo trong các hoạt động văn hóa, Nghị quyết chủ trương: "Chính sách khuyến khích sáng tạo trong các hoạt động văn hóa đòi hỏi tăng nguồn đầu tư thích đáng. Chú trọng đầu tư hỗ trợ những tác giả có uy tín, những tài năng trẻ, đầu tư cho lực lượng chuyên nghiệp và cả những phong trào quần chúng. Có chính sách chăm sóc đặc biệt đối với các văn nghệ sĩ tuổi cao tiêu biểu, các mầm non nghệ thuật xuất sắc. Sửa chế độ nhuận bút phù hợp với tình hình mới; có chính sách khuyến khích đối với lao động nghệ thuật và báo chí. Thành lập quỹ văn hóa quốc gia và quỹ sáng tác của các hội văn học, nghệ thuật, tạo thêm nguồn hỗ trợ tài chính cho xây dựng các tác phẩm. Có chính sách khuyến khích các văn nghệ sĩ, nhà báo gắn bó với cơ sở, với thực tiễn lao động sản xuất. Tiếp tục thực hiện Pháp lệnh về giải thưởng Hồ Chí Minh, giải thưởng Nhà nước và Pháp lệnh công nhận danh hiệu nghệ sĩ nhân dân, nghệ sĩ ưu tú.
Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII cũng định hướng chính sách cán bộ, trong đó nhấn mạnh chính sách đối với quy hoạch, sử dụng, nhất là đào tạo, bồi dưỡng, tiến tới chuẩn hóa cán bộ văn hóa các cấp: "Nâng cao trình độ mọi mặt của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý văn hóa các cấp. Sử dụng và bố trí hợp lý đội ngũ cán bộ hiện có. Xây dựng quy hoạch và thực hiện chương trình đào tạo lớp cán bộ mới (cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý, chuyên gia) đủ phẩm chất và năng lực đảm đương công việc trong những năm tới. Củng cố, kiện toàn các khoa, trường đào tạo cán bộ văn hóa, nghệ thuật, thông tin, báo chí, các viện nghiên cứu cả về tổ chức, đội ngũ giảng viên chương trình, giáo trình. Tăng thêm điều kiện và phương tiện kỹ thuật giảng dạy, học tập. Tổ chức tốt đào tạo trên Đại học... Xây dựng và thực hiện tiêu chuẩn hóa cán bộ văn hóa ".
Tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII, ngày 9 tháng 6 năm 2014, Hội nghị Trung ương 9 khóa XI đã ban hành Nghị quyết số 33-NQ/TW về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước. Ban Chấp hành Trung ương đề ra 4 giải pháp, trong đó giải pháp thứ tư tập trung vào "Xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác văn hóa ", từ xây dựng chiến lược đến quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, quản lý, sử dụng, chính sách đãi ngộ: Xây dựng chiến lược phát triển đội ngũ chiến lược văn hóa. Coi trọng quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí cán bộ lãnh đạo, quản lý văn hóa, cán bộ làm công tác khoa học, chuyên gia đầu ngành, cán bộ ở cơ sở. Quan tâm xây dựng các trường văn hóa, nghệ thuật, tạo chuyển biến cơ bản về chất lượng và quy mô đào tạo. Hình thành một số cơ sở đào tạo đại học, trên đại học trọng điểm, đạt chuẩn khu vực và quốc tế. Đổi mới đào tạo, bồi dưỡng cán bộ văn hóa theo hướng hiện đại và hội nhập quốc tế. Tiếp tục gửi sinh viên, cán bộ đi đào tạo chuyên ngành văn hóa, nghệ thuật, thể thao ở các nước phát triển. Xây dựng đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ trong các dân tộc thiểu số, có chính sách khuyến khích họ trở về công tác tại địa phương. Chú trọng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giáo viên giảng dạy các chuyên ngành văn hóa. Có chính sách phát hiện, bồi dưỡng, sử dụng đãi ngộ, tôn vinh cán bộ trong lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật; trọng dụng người có tài, có đức. Điều chỉnh chế độ tiền lương, trợ cấp đối với những người hoạt động trong các bộ môn nghệ thuật đặc thù.
So với chủ trương về chính sách đối với nguồn nhân lực văn hóa được nêu trong Nghị quyết Trung ương 5 khoá VIII, chính sách phát triển nguồn nhân lực văn hóa được đề cập trong Nghị quyết Trung ương 9 khóa XI đã đầy đủ hơn về mặt đối tượng áp dụng chính sách, nội dung chính sách, có chính sách vận dụng cho trước mắt, có chính sách vận dụng cho lâu dài, thể hiện tầm nhìn chiến lược về vai trò của chính sách đối với sự phát triển nguồn lực văn hóa, nghệ thuật.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng cũng đã nhấn mạnh rất cụ thể mục tiêu đến 2025, đến 2030, yêu cầu về phát triển nguồn nhân lực văn hóa, đặc biệt là đối với cán bộ lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý, tham mưu giữ các cương vị chủ chốt trong lĩnh vực văn hóa, văn nghệ, nhất là cán bộ chủ chốt thực sự am hiểu về văn hóa, có phẩm chất, bản lĩnh, năng lực chuyên môn, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ. Rà soát toàn bộ các trường đào tạo văn hóa, văn nghệ, đổi mới và hiện đại hóa quy trình, nội dung, phương thức đào tạo để trong 5 - 10 năm tới khắc phục về cơ bản sự thiếu hụt đội ngũ cán bộ làm công tác văn hóa[3].
Trên cơ sở chủ trương, yêu cầu của Đảng về xây dựng chính sách đối với nguồn nhân lực văn hóa, Chính phủ đã cụ thể hóa những chính sách này trong các chiến lược phát triển văn hóa: Chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2020 (Phê duyệt kèm theo Quyết định số 581/QĐ-TTg ngày 6 tháng 5 năm 2009 của Thủ tướng Chính phủ), Chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2030 (Phê duyệt kèm theo Quyết định số 1909/QĐ-TTg ngày 12 tháng 11 năm 2021 của Thủ tướng Chính phủ). Ở tầm vĩ mô, Chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2020 đã nêu rất rõ chính sách tăng cường nguồn nhân lực văn hóa, nghệ thuật với các điểm nhấn: Xây dựng tiêu chuẩn và cơ chế lựa chọn, bố trí cán bộ lãnh đạo, quản lý, tham mưu lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật có đủ năng lực, trình độ và phẩm chất đảm đương công việc. Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức và chuyên gia đầu ngành trong lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật vững vàng về tư tưởng chính trị, tinh thông về nghề nghiệp. Xây dựng đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ đạt chất lượng cao, từng bước tiến lớn ngang tầm với trình độ các nước tiên tiến trong khu vực và thế giới. Thực hiện chính sách trọng dụng nhân tài, ưu đãi văn nghệ sĩ có quá trình cống hiến, có nhiều tác phẩm tốt, ảnh hưởng tích cực trong xã hội. Xây dựng quy hoạch đào tạo văn hóa, nghệ thuật trong toàn quốc nhằm gắn kết chặt chẽ giữa đào tạo văn hóa, nghệ thuật với nhu cầu của người học và nhu cầu của xã hội. Hoàn thiện và nâng cao chất lượng đào tạo của hệ thống các trường văn hóa, nghệ thuật; củng cố, nâng cấp các trường cao đẳng văn hóa, nghệ thuật khu vực Tây Bắc, Việt Bắc, Tây Nguyên, trường Trung cấp văn hóa, nghệ thuật ở các tỉnh, tạo điều kiện để các trường có đủ năng lực đào tạo nguồn nhân lực văn hóa, nghệ thuật. Hình thành ba trung tâm đào tạo văn hóa, nghệ thuật đạt tiêu chuẩn quốc gia ở Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh và Thừa Thiên Huế. Thành lập trường Đại học Văn hóa, nghệ thuật ở khu vực Tây Nguyên, Trường Đại học Văn hóa, nghệ thuật Cần Thơ. Xây dựng Học viện Âm nhạc quốc gia Việt Nam, Trường Đại học Mỹ thuật Việt Nam và một số trường văn hóa, nghệ thuật khác ngang tầm các nước tiên tiến trong khu vực. Hoàn chỉnh hệ thống chương trình, giáo trình, tài liệu tham khảo cho các ngành học, các cấp đào tạo văn hóa, nghệ thuật tiếp cận nhanh trình độ quốc tế mà vẫn giữ gìn bản sắc văn hóa, nghệ thuật dân tộc và những đặc trưng riêng về văn hóa, nghệ thuật của các vùng, miền. Bổ sung một số môn học nghệ thuật truyền thống vào chương trình đào tạo. Mở một số ngành mới ở bậc đại học (gia đình, chỉ đạo nghệ thuật...). Mở rộng và phát triển đào tạo công nhân lành nghề trong một số lĩnh vực kỹ thuật. Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giáo viên có, đủ năng lực chuyên môn, ngoại ngữ và phẩm chất đáp ứng nhiệm vụ đào tạo. Thực hiện chương trình nâng cao trình độ cho giáo viên thông qua đào tạo sau đại học ở trong và ngoài nước. Đổi mới phương pháp dạy và học của giáo viên và học sinh, sinh viên. Thực hiện việc đưa đi đào tạo ở các nước tiên tiến đối với học sinh, sinh viên có đạo đức và triển vọng về tiềm năng trên các lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật; chú trọng đào tạo sư phạm nhạc, họa để đảm bảo nguồn giảng viên cho hệ thống các trường văn hóa, nghệ thuật, trường phổ thông. Ưu tiên đào tạo đội ngũ trí thức văn hóa cho các dân tộc thiểu số, bảo đảm chế độ ưu đãi để họ có thể trở về công tác ở địa phương. Thực hiện chính sách miễn, giảm học phí cho học sinh các bộ môn nghệ thuật truyền thống dân tộc. Xây dựng chế độ, chính sách phù hợp với đặc thù nghề nghiệp của giáo viên, học sinh nghệ thuật để khuyến khích lao động sáng tạo nghệ thuật; khuyến khích nghệ sĩ, nghệ nhân tham gia giảng dạy các ngành nghệ thuật đặc thù. Có cơ chế chính sách huy động trí thức văn hóa đầu ngành, văn nghệ sĩ tài năng trực tiếp thực hiện việc đào tạo đội ngũ kế cận. Chú trọng đào tạo và đào tạo lại kiến thức về quản lý và tổ chức các hoạt động văn hoá cho cán bộ cơ sở; khắc phục tình trạng thiếu cán bộ hoạt động văn hoá được đào tạo cơ bản ở các địa phương. Khuyến khích xã hội hoá hoạt động đào tạo; nâng cao chất lượng đào tạo đi đôi với việc đa dạng hoá các loại hình đào tạo văn hoá, nghệ thuật…
Trong Chiến lược phát triển văn hoá đến năm 2030, trong số 22 đề án, dự án, chương trình, Thủ tướng Chính phủ quyết định có “Đề án xây dựng đội ngũ cán bộ ngành Văn hoá, Thể thao và Du lịch”. Chiến lược xác định cần tạo ra bước đột phá về phát triển nguồn nhân lực trong lĩnh vực văn hoá, nghệ thuật. Theo đó cần đầu tư nâng cấp cơ sở vật chất kỹ thuật và công nghệ theo tiêu chuẩn quốc tế cho hệ thống các trường văn hoá, nghệ thuật; xã hội hoá và đa dạng hoá các loại hình đào tạo văn hoá, nghệ thuật. Đổi mới phương thức đào tạo; nâng cao năng lực đội ngũ giảng viên, cán bộ quản lý các cơ sở đào tạo văn hoá, nghệ thuật. Miễn, giảm học phí cho học sinh, sinh viên, ưu đãi thoả đáng cho giảng viên, nhất là với các môn nghệ thuật truyền thống. Xây dựng hệ thống tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp chuyên ngành văn hoá. Thu hút nhân lực có chất lượng cao làm việc trong các thiết chế văn hoá ở các cấp. Thể chế hoá chủ trương của Đảng, từ khi Nghị quyết Trung ương 5 khoá VIII được ban hành đến nay, Quốc hội cũng đã thông qua nhiều bộ luật, không chỉ để điều chỉnh các hoạt động văn hoá, mà còn thể hiện chính sách của Nhà nước trong việc tạo ra hành lang pháp lý cho phát triển văn hoá nói chung, phát triển nguồn nhân lực văn hoá nói riêng. Đó là Luật Di sản văn hoá, Luật Điện ảnh, Luật Du lịch, Luật Quảng cáo, Luật Thư viện, Luật Sở hữu trí tuệ…Bên cạnh các luật do Quốc hội thông qua, Chính phủ cũng ban hành nhiều văn bản trực tiếp cụ thể hoá chính sách phát triển nguồn nhân lực văn hoá. Đó là các nghị định tôn vinh những đóng góp to lớn của các cá nhân đối với sự phát triển văn hoá, nghệ thuật nước nhà. Chẳng hạn: Nghị định số 90/2014/NĐ-CP ngày 29 tháng 9 năm 2014 của Chính phủ về “Giải thưởng Hồ Chí Minh”,”Giải thưởng Nhà nước” về văn học, nghệ thuật; Nghị định số 36/2014/NĐ-CP ngày 4 tháng 4 năm 2024 của Chính phủ quy định chi tiết xét tặng “Giải thưởng Hồ Chí Minh”, “Giải thưởng Nhà nước” về văn học, nghệ thuật; Nghị định số 62/2014/NĐ-CP ngày 25 tháng 6 năm 2014 của Chính phủ quy định về xét tặng danh hiệu “Nghệ nhân nhân dân”. “Nghệ nhân ưu tú” trong lĩnh vực di sản văn hoá phi vật thể; Nghị định số 89/2014/NĐ-CP ngày 29 tháng 9 năm 2014 của Chính phủ quy định về xét tặng danh hiệu “Nghệ sĩ nhân dân”, “Nghệ sĩ ưu tú” (Nghị định này hiện đã được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 40/2021/NĐ-CP ngày 30 tháng 3 năm 2021 của Chính phủ sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị định số 89/2014/NĐ-CP của Chính phủ quy định về xét tặng danh hiệu “Nghệ sĩ nhân dân”, “Nghệ sĩ ưu tú”); Nghị định số 61/2024/NĐ-CP ngày 6 tháng 6 năm 2014 của Chính phủ quy định về xét tặng danh hiệu “Nghệ sĩ nhân dân”, “Nghệ sĩ ưu tú” để thay thế nghệ định số 89/ 2014/NĐ-CP…
Những năm qua, Nhà nước cung đã ban hành nhiều chính sách để khuyến kich những người hoạt động trong lĩnh vực văn hoá, nghệ thuật, trong đó có những chính sách đặc thù. Chẳng hạn: Chế độ phụ cấp ưu đãi nghề nghiệp và chế độ bồi dưỡng đối với người làm việc trong lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn (theo Quyết định số 14/2015/QĐ-TTg ngày 20 tháng 5 năm 2015 của Thủ tướng chính phủ); quy định về nhuận bút, thù lao đối với tác phẩm điện ảnh, mỹ thuật, nhiếp ảnh, sân khấu và các loại hình nghệ thuật biểu diễn khác (Nghị định số 21/2015/NĐ-CP ngày 14 tháng 2 năm 2015 của Chính phủ). Đối với học sinh, sinh viên các môn nghệ thuật truyền thống và đặc thù trong các trường văn hoá - nghệ thuật, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 82/2005/QĐ-TTg ngày 18 tháng tư năm 2005 quy định cụ thể về chế độ ưu đãi đối với học sinh, sinh viên các chuyên ngành như tuồng, chèo, cải lương, múa hát cung đình, xiếc, thanh nhạc. Khắc phục những bất cập của Quyết định số 82/2005/QĐ-TTg, ngày 21 tháng 7 năm 2014, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 41/2014/QĐ-TTg về chế độ ưu đãi đối với học sinh, sinh viên các ngành nghệ thuật truyền thống và đặc thù trong các trường văn hoá - nghệ thuật.
Một trong những điểm mới trong chính sách phát triển nguồn nhân lực văn hoá ở nước ta thời gian qua là 20 chuyên ngành trong nhóm nghệ thuật trình diễn đã được xếp vào danh mục ngành, nghề học nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm để Nhà nước có chính sách đãi ngộ thoả đáng (theo Thông tư số 05/2023/TT-BLĐTBXH ngày 15 tháng 6 năm 2023 của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội)
Không chỉ ở Trung ương, một số địa phương trong cả nước cũng đã ban hành được chính sách cụ thể, thiết thực, sát hợp với thực tiễn địa phương để góp phần phát triển nguồn nhân lực văn hoá. Một trong những tỉnh làm tốt việc xây dựng và tổ chức thực hiện hiệu quả những chính sách này là tỉnh Bắc Ninh. Đơn cử một ví dụ: Ngày 17 tháng 4 năm 2019, Hội đồng nhân dân tỉnh ban hành Nghị quyết số 175/2019/NQ-HĐND về việc quy định hỗ trợ kinh phí hoạt động đối với làng Quan họ gốc, làng Quan họ thực hành trong tỉnh; mức quà tặng cho các làng Quan họ gốc ngoài tỉnh, các câu lạc bộ dân ca Quan họ Bắc Ninh trong và ngoài tỉnh.
Bên cạnh những kết quả không thể phủ nhận trong việc Trung ương và các địa phương quan tâm xây dựng và tổ chức thực hiện chính sách phát triển nguồn nhân lực văn hoá thì cũng còn khá nhiều bất cập, còn những điểm nghẽn chưa tháo gỡ được về vấn đề này. Chính sách chưa đồng bộ giữa quy hoạch với đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng nguồn nhân lực (bao hàm cả bố trí, sắp xếp, luân chuyển), ưu đãi, tôn vinh, giữa các hoạt động văn hoá. Còn thiếu nhiều chính sách mang tính đột phá trong phát triển nguồn nhân lực văn hoá; chính sách chưa bao phủ hết và cũng chưa phù hợp với nhiều đối tượng thụ hưởng thuộc các lĩnh vực, ngành, nghề hoạt động, các vùng miền khác nhau. Một số chính sách đã lạc hậu mà chưa được kịp thời thay thế; một số chính sách không sát thực tiễn nên thực tiễn nhanh chóng vượt qua. Nhiều chính sách đặc thù được ban hành nhưng vẫn không phát huy được hiệu quả như mong đợi. Lương vẫn là một nguồn sống chính của những người hoạt động văn hoá, nhất là những người hoạt động văn hoá ở cơ sở, nhưng nhìn chung còn thấp. Nghệ nhân và những người hoạt động văn hoá không chuyên ở nhiều địa phương chưa được quan tâm thoả đáng. Trong quá trình tổ chức thực hiện chính sách, nhiều cơ quan, đơn vị gặp vướng mắc từ nhiều năm nay vẫn loay hoay chưa tìm được cách khắc phục hiệu quả. Chẳng hạn đối với các môn nghệ thuật truyền thống, dù đã tuyên truyền bằng nhiều kênh nhưng trường nào thuộc hệ thống trường văn hoá - nghệ thuật trong cả nước cũng rất khó chiêu sinh, có môn học không chiêu sinh được em nào. Chuyên gia giỏi thực sự trong lĩnh vực văn hoá, nghệ thuật ngày càng thiếu vắng.
3. Một số giải pháp xây dựng và hoàn thiện chính sách phát triển nguồn nhân lực văn hoá thời gian tới
Văn hoá ngày càng được đề cao, giữ vai trò là nền tảng tinh thần xã hội, mục tiêu, động lực, sức mạnh nội sinh bảo đảm sự phát triển bền vững đất nước. Tuy nhiên, theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Muôn việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hoặc kém”, “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc” thì gốc gác của vấn đề vẫn là nguồn nhân lực văn hoá có đáp ứng cả yêu cầu về số lượng và chất lượng hay không, cả trước mắt và lâu dài hay không. Vì vậy thời gian tới cần có những yêu cầu mới về xây dựng chính sách phát triển nguồn nhân lực văn hoá, để chính sách thực sự là một trong những động lực cơ bản góp phần xây dựng đội ngũ những người hoạt động văn hoá từ Trung ương đến cơ sở đầy đủ phẩm chất, năng lực, ngang tầm nhiệm vụ xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bả sắc dân tộc. Trước mắt, tập trung thực hiên hiệu quả một số giải pháp chủ yếu dưới đây.
Một là, trên cơ sở các chủ trương của Đảng, Chiến lược phát triển văn hoá đến năm 2030 (ban hành kèm theo Quyết định số 1909/QĐ-TTg ngày 12 tháng 11 năm 2021), Chiến lược quốc gia về thu hút, trọng dụng nhân tài đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050 (ban hành kèm theo Quyết định số 899/QĐ-TTg ngày 31 tháng 7 năm 2023 của Thủ tướng Chính phủ), tập trung xây dựng đồng bộ hệ thống chính sách phát triển nguồn nhân lực văn hoá Việt Nam, từ chính sách quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, luân chuyển đến khen thưởng, tôn vinh…bao phủ các đối tượng thuộc các lĩnh vực, hoạt động văn hoá, nghệ thuật từ Trung ương đến địa phương. Trong quá trình xây dựng chính sách cần điều tra, khảo sát kỹ lưỡng, có đánh giá xác đáng mọi khía cạnh, lấy ý kiến rộng rãi đối tượng thụ hưởng, tính toán yêu cầu trước mắt và lâu dài…để chính sách thực sự khoa học, phù hợp, không bị lạc hậu nhanh, phát huy hiệu quả cao nhất trong thực tiễn.
Hai là, trên cơ sở tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp, vị trí việc làm, chính sách phát triển nguồn nhân lực văn hoá phải đi trước một bước; chú trọng xây dựng những chính sách đặc thù đối với hoạt động văn hoá, nghệ thuật: đặc thù về đối tượng thụ hưởng; đặc thù về lĩnh vực, ngành, nghề học tập, môi trường, vùng miền hoạt động; đặc thù về lứa tuổi, giới tính; đặc thù về vai trò trong cộng đồng, xã hội; đặc thù về nguồn lực cho hoạt động văn hoá đối ngoại…Kiên quyết loại bỏ việc xây dựng chính sách phát triển nguồn nhân lực văn hoá theo kiểu ban ơn, chắp vá, vụn vặt. Ưu tiên những chính sách có tính chiến lược để xây dựng đội ngũ lãnh đạo, quản lý văn hoá, nghệ thuật cả ở tầm vĩ mô và vi mô, trí thức, chuyên gia, nghệ sĩ, nghệ nhân, giáo viên, giảng viên các trường văn hoá, nghệ thuật, nhân lực trong ngành công nghiệp văn hoá và công chức văn hoá - xã hội ở cấp xã. Mạnh dạn thí điểm chính sách đột phá thu hút trí thức, người hoạt động văn hoá có trình độ cao gốc Việt đang sinh sống ở nước ngoài về nước hoạt động văn hoá, nghệ thuật.
Ba là, Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch, Bộ Thông tin và Truyền thông cùng các cơ quan hữu quan như Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, Bộ Tài chính, Bộ Nội vụ…cần chủ động, sáng tạo và thực hiện hiệu quả hơn công tác tham mưu cho cấp và cơ quan có thẩm quyền xây dựng, ban hành các chính sách phát triển nguồn nhân lực văn hoá, nhất là các chính sách ở tầm vĩ mô, có tính đột phá chiến lược, tạo ra động lực thực sự để đảm bảo đủ về số lượng, chất lượng nguồn nhân lực văn hoá trong hiện tại và tương lai. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, tổng kết thực tiễn để đánh giá việc thực hiện chính sách phát triển nguồn nhân lực văn hoá. Phát huy vai trò của các trường đào tạo, bồi dưỡng, các viện nghiên cứu thuộc lĩnh vực Văn hoá, Thể thao và Du lịch, Thông tin và Truyền thông, các chuyên gia, các Hội văn học, nghệ thuật trong tạo nguồn nhân lực, nghiên cứu chính sách phát triển nguồn nhân lực văn hoá.
Bốn là, khuyến khích các địa phương xây dựng, ban hành, tổ chức thực hiện các chính sách phát triển nguồn nhân lực văn hoá phù hợp với yêu cầu và điều kiện kinh tế - xã hội, phát huy tiềm năng, thế mạnh của địa phương. Đẩy mạnh xã hội hoá việc phát triển nguồn nhân lực văn hoá theo chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
Năm là, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước trong công tác xây dựng và tổ chức thực hiện chính sách phát triển nguồn nhân lực văn hoá. Lĩnh vực văn hoá, nghệ thuật vừa rộng, vừa tinh tế, nhạy cảm, đòi hỏi phải thường xuyên bảo đảm định hướng tư tưởng chính trị, kỷ cương, tạo dựng niềm tin tưởng sâu sắc vào hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hoá, chuẩn mực con người Việt Nam cho những người hoạt động văn hoá, nghệ thuật. Chú trọng phát triển đảng viên trong đội ngũ những người hoạt động văn hoá, nghệ thuật.
TS. Nguyễn Văn Thắng
Giảng viên cao cấp, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
[1] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2021, t.2, tr. 220.
[2] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2021, t.1, tr. 221.
[3] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thạt, H, 2021, t.1, tr. 146-147.