I. Đặc điểm, vai trò của báo chí, xuất bản với bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác quan điểm sai trái, thù địch
1. Nền tảng tư tưởng và tầm quan trong của việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác quan điểm sai trái, thù địch
Trên thế giới hiện nay, đối với các đảng phái chính trị, dù là cầm quyền, tham chính hoặc là đảng đối lập, các đảng chính trị từ khi ra đời, về cơ bản đều dựa trên những quan điểm, tư tưởng, lý thuyết chính trị, kinh tế nhất định…, thể hiện thái độ của đảng chính trị đối với các vấn đề trong nước và quốc tế. Điều này thường được đề cập trọng cương lĩnh, điều lệ ngay từ khi chính đảng, tổ chức chính trị đó ra đời. Những quan điểm, tư tưởng đó cũng thường được bổ sung, phát triển hoặc thay đổi tùy theo sự phát triển, đặc điểm của tình hình thế giới, trong nước, cũng như quy mô, phạm vi hoạt động của các đảng, tổ chức chính trị đó, nhằm đảm bảo sự thích ứng với điều kiện mới, phạm vi, tầm ảnh hưởng của chính đảng, đối tượng, vấn đề hoặc mục tiêu mà đảng phái chính trị đó theo đuổi. Thái độ chính trị, quan điểm của các chính đảng đối với các vấn đề lớn trong từng nước, với các vấn đề của thế giới, nhân loại là căn cứ để phân loại sự khác nhau giữa các chính đảng với các tên gọi như cánh tả, cánh hữu hay trung dung… Ngày nay, trong mỗi quốc gia cũng như quốc tế, xuất hiện rất nhiều vấn đề lớn, bởi vậy phân loại cánh tả, cánh hữu hay trung dung là thể hiện các tiếp cận, đánh giá về từng vấn đề cụ thể gắn với lợi ích của các đảng phái chính trị, có vấn đề thì nhiều đảng ủng hộ, có sự kiến thì thái độ khác nhau…Sau chiến tranh thế giới lần thứ 2, theo các nhà nghiên cứu cho thấy, thế giới có khoảng 5000 đảng phái chính trị với nhiều tên gọi, như đảng cộng sản, đảng nhân dân, đảng lao động, đảng dân chủ hay đảng con voi, đảng con lừa, đảng bảo thủ, đảng xanh, có nhiều đảng thay nhau cầm quyền hoặc có quốc gia chỉ một đảng cầm quyền…
Quan điểm tư tưởng của đảng phái chính trị không chỉ là cở sở phân loại chính đảng, mà còn là tiêu chí để tập hợp lực lượng, quan trọng hơn, trên những vấn đề lớn, có tính nguyên tắc, còn là mục tiêu phấn đấu, đặc biệt là khi trở thành đảng cầm quyền. Bởi vậy, quan điểm, nền tảng tư tưởng của một chính đảng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với một đảng chính trị nói chung, nhất là trọng điều kiện cầm quyền. Khi đề cập đến nền tảng tư tưởng, là nói đến những nguyên lý, quan điểm tư tưởng cốt lõi, là cơ sở của đường lối chính trị của đảng trong quá trình hoạt động. Sức hấp dẫn của hệ tư tưởng chính là tính tiên tiến, hiện đại tiếp thu tinh hoa, tri thức của nhân loại, đặc điểm truyền thống văn hóa, lịch sử quốc gia, dân tộc để làm giàu thêm nền tảng tư tưởng vốn có; tính hấp dẫn của hệ tư tưởng còn ở tính đại diện, phản ánh ý chí, nguyện vọng, lợi ích của số đông quần chúng, cử tri…; sức hấp dẫn còn thể hiện ở sự vạch lối, chỉ đường của ý thức hệ, nền tảng tư tưởng đối với tiến trình phát triển của nhân loại, các quốc gia, dân tộc, phản ánh những vấn đề mang tính quy luật trong tiến trình phát triển của văn minh nhân loại; đồng thời, sức hấp dẫn của hệ tư tưởng, ý thức hệ còn cho phép đưa ra đường lối, chủ trương để các đảng cầm quyền, tham chính có thể giải quyết được những vấn đề đặt ra trong quá trình phát triển. Điều hiển nhiên là, có tư tưởng, quan điểm đúng, không tự nhiên có được kết quả như mong muốn, điều này phụ thuộc vào tổ chức thực hiện, vào con người cụ thể hóa, đặc biệt là đội ngũ tiên phong, lãnh đạo chính trị, người đứng đầu. Thực tiễn chứng minh rằng, quan liêu, tham nhũng, xa dân cũng như cực đoan, giáo điều cũ và mới, đều là nguyên nhân của thất bại.
Các nước xã hội chủ nghĩa có cách tiếp cận riêng về nền tảng tư tưởng, ý thức hệ với chủ nghĩa Mác- Lênin là nền tảng, điểm chung của các quốc gia theo hệ tư tưởng này, đều bắt nguồn từ mong muốn độc lập dân tộc; xóa bỏ áp bức bóc lột, bất công, yêu chuộng hòa bình, chống chiến tranh, tất cả vì con người; các dân tộc bình đẳng, trên tinh thần quốc tế trong sáng, hướng tới chế độ xã hội mới tốt đẹp hơn các chế độ đã có trong lịch sử văn minh nhân loại, khi học thuyết này ra đời. Chủ nghĩa Mác- Lênin trên những vấn đề nguyên lý, cốt lõi chính là kim chỉ nam giải quyết những vấn đề quốc gia, dân tộc trong thế giới đương đại. Ở các quốc gia này, đều có cùng đặc điểm, đó là các nhà tư tưởng, lãnh tụ chính trị, nhà cách mạng tiêu biểu tinh thần yêu nước, đã kết hợp chủ nghĩa yêu nước với học thuyết Mác, sau này là Chủ nghĩa Mác-Lênin, đã giải quyết thành công vấn đề độc lập dân tộc, đưa nhân dân thoát khỏi ách áp bức, nô lệ, trở thành người làm chủ. Chủ nghĩa xã hội đã từng là hệ thống thế giới lớn mạnh, đóng góp nhiều thành tựu về giải phóng dân tộc, về hòa bình, ngăn chặn chiến tranh, văn minh nhân loại, hướng tới người dân ấm no, tự do hạnh phúc…Mặc dù trong quá trình phát triển của hệ thống xã hội chủ nghĩa trên thế giới có những sai lầm, thất bại trong nhận thức, tổ chức thực hiện, có nơi giáo điều, không tôn trọng quy luật khách quan. Nhưng tư tưởng, những giá trị cốt lõi của Chủ nghĩa Mác- Lê nin vẫn còn nguyên giá trị, sức sống mạnh liệt của học thuyết không chỉ thể hiện ở những quốc gia kiên định con đường, sự lựa chọn đi lên CNXH, đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Tính đúng đắn, khoa học và hiện đại của Chủ nghĩa Mác- Lê nin vẫn là nguồn cảm hứng, sự quan tâm của nhiều quốc gia, chính khách, nhà khoa học, học giả, nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới, đi lên chủ nghĩa xã hội vẫn là quy luật phát triển của văn minh nhân loại. Bởi vậy, đây luôn là chủ đề để các thế lực cơ hội, thù địch chống phá với nhiều âm mưu, thủ đoạn khác nhau trong suốt quá trình phát triển.
Ở Việt Nam, nền tảng tư tưởng của Đảng là Chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, điều này được khẳng định trong Hiến pháp và các văn bản quan trọng khác của Đảng và Nhà nước. Chủ nghĩa Mác- Lênin là ngọn cờ tư tưởng, một học thuyết cách mạng và khoa học, đã giúp cho các dân tộc bị áp bức, bóc lột con đường để giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp xây dựng xã hội mới. Tư tưởng đó được Chủ tịch Hồ Chí Minh vận dụng sáng tạo vào thực tiễn Việt Nam, như Người đã từng khẳng định với hàm ý: “ Bây giờ chủ nghĩa nhiều, học thuyết lắm, nhưng chỉ có chủ nghĩa Mác- Lê nin là cách mạng nhất, chân chính nhất”. Cùng với những nguyên lý cơ bản của Chủ nghĩa Mác Lê-nin, những tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người; về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; về xây dựng, chỉnh đốn Đảng; về Nhà nước của dân, do dân và vì dân; về đạo đức cách mạng…thực sự có vai trò nền tảng, đặc biệt quan trọng, đưa cách mạng Việt Nam giành hết thắng lợi này đến thắng lợi khác. Nền tảng tư tưởng của Đảng là cơ sở chính trị, pháp lý cơ bản, là ngọn cờ tư tưởng, lý luận để Đảng ta lãnh đạo thành công sự nghiệp cách mạng. Trong các văn kiện của Đảng, Nhà nước Việt Nam luôn khẳng định, lấy Chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng ta. Đó cũng là căn cứ, tiền đề để xây dựng chủ trương, đường lối xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc XHCN ở Việt Nam trong các giai đoạn cách mạng. Do tầm quan trọng của nền tảng tư tưởng của Đảng như vậy, các thế lực cơ hội, thù địch luôn tìm cách phá hoại với nhiều âm mưu, thủ đoạn khác nhau trong suốt quá trình từ khi đảng ta ra đời, lãnh đạo đất nước cho đến hiện nay và sau này. Bởi vậy, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng có ý nghĩa sống còn với sự tồn vong của chế độ, với sự phát triển đất nước.
2. Báo chí, xuất bản với việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch
Từ khi tư tưởng xã hội chủ nghĩa ra đời, các nhà kinh điển Macxit đã luôn vấp phải sự chống phá của các tư tưởng cực đoan, cơ hội, thù địch.., cho đến khi có nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên, và sau đó, hệ thống xã hội chủ nghĩa trên thế giới ra đời, sự chống phá này, thực chất là một phần cuộc đấu tranh tư tưởng “ ai thắng ai” giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội. Thực tiễn đã cho thấy tính chất, âm mưu, nội dung, phạm vi chống phá của các thế lực cơ hội, thù địch thay đổi qua các giai đoạn khác nhau, trên phạm vi quốc tế và đối với từng quốc gia. Trên những vấn đề chung, có thể phân kỳ theo các giai đoạn, từ năm 1917 khi ra đời nhà nước xô viết đầu tiên đến năm 1949, khi phong trào giải phóng dân tộc lớn mạnh, nhiều quốc gia giành độc lập và đi lên chủ nghĩa xã hội; giai đoạn từ 1949 đến 1975, khi Việt Nam một dân tộc nhỏ, đánh bại đế quốc lớn là Mỹ, tạo ra sự kiện lớn mang dấu ấn thời đại; từ 1975 đến 1991, bên cạnh sự lớn mạnh của nhiều nước xã hội chủ nghĩa, cũng xuất hiện những khó khăn, thách thức dẫn tới sự sụp đổ của Liên xô và hàng loạt nước xã hội chủ nghĩa ở Đông âu, “Chiến lược diễn biến hòa bình”, “ Chiến thắng không cần chiến tranh”.. không ngừng được đẩy mạnh, đặc biệt trên lĩnh vực tư tưởng, và giai đoạn từ 1991- đến nay, âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch càng tinh vi, quyết liệt hơn đối với các nước xã hội chủ nghĩa nói chung và Việt Nam nói riêng.
Về nội dung chính, các thế lực cơ hội, thù địch thực hiện đối với Việt Nam là bóp méo, phê phán nội dung, quan điểm của Chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh phục vụ cuộc đấu tranh ý thức hệ; đề cao, cổ súy chủ nghĩa tư bản, mô hình CNTB, tam quyền phân lập, phê phán, xuyên tạc vai trò lãnh đạo của đảng cộng sản, phi chính trị hóa lực lượng vũ trang..; khoét sâu những hạn chế, khuyết điểm trong lãnh đạo, quản lý chúng ta mắc phải, thổi phồng khuyết điểm, hạ thấp thành quả đạt được của đất nước; xuyên tạc, phê phán đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước trên các lĩnh vực tư tưởng, kinh tế, văn hóa, đối ngoại, vấn đề biển đảo, chủ quyền lãnh thổ..; chia rẽ dân tộc, tôn giáo, quan hệ quốc tế của Việt Nam với các nước, đặc biệt là Việt Nam với Trung Quốc, khai thác sâu những vướng mắc giữa hai nước trong vấn đề chủ quyền, lãnh thổ..; công kích, xuyên tạc, bôi nhọ hình ảnh lãnh đạo đảng, nhà nước…
Âm mưu, thủ đoạn, mục tiêu chính: Bôi nhọ hình ảnh, hạ uy tín đất nước trong cộng đồng quốc tế; chia rẽ nội bộ, hạ bệ thần tượng, khai thác những vấn đề “nhạy cảm” tạo điểm nóng, bất ổn trong nước; bao vây, cô lập, tạo áp lực từ bên ngoài, xây dựng ngọn cờ, phối hợp chống phá trong, ngoài; sử dụng các phương tiện, công nghệ tạo hiệu ứng lan tỏa, nhất là internet, mạng xã hội, các phương tiện báo chí, xuất bản, truyền thông từ bên ngoài, các quốc gia dưới vỏ bọc “dân chủ”, nguồn không kiểm chứng, tuyên truyền sai lạc, kích động bạo loạn, dựng ngọn cờ, tập hợp lực lượng để chống phá.
Mục tiêu chính: Làm cho nhân dân mất lòng tin vào chế độ, vào đường lối chính sách của Đảng, đặc biệt là nền tảng tư tưởng, không tin vào sự lãnh đạo của Đảng. Mục tiêu cuối cùng là, làm mất vai trò lãnh đạo của Đảng, tạo khủng hoảng, rối loạn xã hội, dẫn tới lật đổ chế độ.
Do đặc điểm, tính chất chống phá của các thế lực cơ hội, thù địch đối với các quốc gia có chủ quyền trong điều kiện mới, chúng tiếp tục thực hiện âm mưu diễn biến hòa bình, chuyển hóa về tư tưởng, từ đó gây bất ổn bên trong. Đặc điểm của thế giới ngày nay, sau thất bại của chủ nghĩa thực dân cũ, một phần cơ bản của chủ nghĩa thực dân mới, không dễ gì mang quân xâm lược các quốc gia khác, cũng không dễ gì làm suy yếu, gây mất ổn định, suy yếu các quốc gia khác bằng các phương thức cũ. Bởi vậy, chuyển hóa về tư tưởng, nhất là đối với thế hệ trẻ, tranh thủ bộ phận bất mãn, “ trở cờ”, cơ hội, thù địch để tuyên truyền, thẩm thấu kết hợp với những yếu kém thực tế, xuất hiện trong quá trình phát triển để chọn thời cơ. Thực tế này cho thấy, vai trò của báo chí, xuất bản là vô cùng quan trọng trong cuộc đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng, điều này thể hiện:
Thứ nhất, báo chí, xuất bản có vị trí hàng đầu trong việc đáp ứng nhu cầu tinh thần của xã hội, với nội dung, hình thức, thể loại phong phú, từ báo in, báo viết, báo hình, báo nói, báo mạng.., đó cũng là điểm chung của các quốc gia trên thế giới hiện nay. Văn minh nhân loại, khoa học và công nghệ, các lĩnh vực của đời sống xã hội cũng không thể phát triển nếu không có báo chí, xuất bản, điều này cũng đồng nghĩa với việc xã hội, con người sẽ không phát triển nếu không có báo chí, xuất bản. Trong đời sống xã hội hiện nay, báo chí, xuất bản vẫn là kênh chuyển tải thông tin cơ bản nhất, đáp ứng đời sống tinh thần của mỗi người và toàn xã hội, giữa các quốc gia.
Thứ hai, đây là kênh thông tin nhanh nhạy nhất, phù hợp với các đối tượng. Có thể khẳng định rằng, báo chí, xuất bản là công cụ trực tiếp, tác động to lớn tới việc thay đổi tư tưởng, nhận thức của mỗi người, cộng đồng người đối với các vấn đề của thời cuộc. Không phải ngẫu nhiên có ý kiến cho rằng, sức mạnh của báo chí, xuất bản là vô cùng to lớn, một bài báo, ấn phẩm xuất bản có sức thuyết phục còn mạnh hơn cả một đạo quân, là kênh đầu tư ít so với các lĩnh vực khác, nhưng hiệu quả lớn, tác động tới sự thay đổi nhận thức, tư tưởng con người. Bởi vậy, nắm được báo chí, xuất bản, đồng nghĩa với làm chủ đời sống tinh thần, chiếm lĩnh mặt trận tư tưởng.
Thứ ba, ở Việt Nam, báo chí, xuất bản là công cụ của Đảng, Nhà nước, diễn đàn của nhân dân. Nền tảng tư tưởng, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, tình hình trong nước và quốc tế, đời sống vật chất và tinh thần của người dân được truyền tải, cập nhật thường xuyên thông qua báo chí, xuất bản. Do vậy, không chỉ là công cụ truyền tải thông tin, báo chí, xuất bản còn đóng vai trò to lớn trong việc cổ vũ người tốt, việc tốt, phê phán cái sai, cái xấu. Đây cũng là công cụ chính, góp phần quan trọng vào việc định hướng tư tưởng, dư luận xã hội về những vấn đề lớn của đất nước, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phê phán quan điểm sai trái, thù địch.
Tính đến cuối năm 2022, ở Việt Nam có 815 cơ quan báo chí, 57 nhà xuất bản với hàng chục nghìn phóng viên, biên tập viên. Các cơ quan báo chí, xuất bản ở nước ta không ngừng lớn mạnh, tiệm cận với xu hướng phát triển chung của thế giới. Cơ quan báo chí đa phương tiện, nhà xuất bản điện tử xuất hiện càng nhiều, phân bổ hợp lý hơn trên các lĩnh vực, đối tượng độc giả, tạo ra nhiều ấn phẩm ngày càng có chất lượng, đáp ứng đời sống tinh thần xã hội. Có thể khẳng định rằng, báo chí, xuất bản đã góp phần quan trọng vào những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử sau hơn 35 năm đổi mới, gần 50 năm đất nước thống nhất; đóng góp quan trọng vào việc giữ vững ổn định chính trị, xã hội, khối đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị của đất nước trong từng giai đoạn; góp phần nâng cao hình ảnh, vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế; tham gia tích cực vào việc xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, củng cố lòng tin của nhân dân vào sự nghiệp đổi mới, vào sự lãnh đạo của Đảng, niềm tin vào tương lai, tiền đồ của đất nước; góp phần xây dựng thế hệ con người Việt Nam, nhất là thế hệ trẻ với những phẩm chất, kỹ năng mới đáp ứng yêu cầu phát triển và hội nhập quốc tế của đất nước; nâng cao ý thức, sức đề kháng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân trước những biến động của tình hình thế giới, khó khăn của đất nước trong quá trình phát triển; làm thất bại âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch trên nhiều lĩnh vực.
Trên một số lĩnh vực cụ thể, sự đóng góp của báo chí, xuất bản vào bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch đã có bước phát triển mới, đặc biệt từ khi hợp nhất Ban Chỉ đạo 94 (đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng), Ban Chỉ đạo 609 (trên lĩnh vực lý luận) và Ban Chỉ đạo 213 (trên lĩnh vực văn hóa, văn nghệ), thành Ban Chỉ đạo 35 hiện nay. Đã tạo ra sự thống nhất, phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan, các lực lượng đấu tranh cả ở trung ương và địa phương; thường xuyên nhận diện, định hướng, phản ứng nhanh nhạy với sự chống phá của các thế lực cơ hội, thù địch; kịp thời cung cấp thông tin, luận cứ khoa học trên từng vấn đề về nền tảng tư tưởng, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, tình hình trong nước và thế giới, âm mưu, thủ đoạn của các thế lực cơ hội, thù địch..; phát huy được thế mạnh của các cơ quan, lực lượng tham gia, đặc biệt là các lĩnh vực lý luận về nền tảng tư tưởng, cơ quan báo chí, xuất bản, các lĩnh vực cụ thể như dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tôn giáo, quốc phòng, an ninh, đối ngoại..; lĩnh vực đấu tranh trên không gian mạng được quan tâm hơn..; chất lượng, tính thuyết phục, phạm vi bao quát cả điểm và diện, bề rộng và chiều sâu. Bên cạnh những hoạt động mang tính thường xuyên, một số loại hình chuyên biệt của báo chí, xuất bản cũng phát huy tác dụng tốt, như các giải báo chí về từng lĩnh vực, giải Búa Liềm vàng, cuộc thi viết chính luận về bảo vệ nền tảng tư tưởng, giải thưởng toàn quốc về thông tin đối ngoại đã thu hút được đông đảo cán bộ, đảng viên, nhất là thế hệ trẻ tham gia. Hội đồng Lý luận Trung ương, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Ban Tuyên giáo Trung ương…đã xuất bản nhiều ấn phẩm chuyên khảo, cung cấp luận cứ khoa học chất lượng cao. Nhiều cơ quan báo chí chủ lực, Nhà xuất bản tham gia, điều đáng chú ý là những năm gần đây, một số cơ quan báo chí, nhà xuất bản, các cây bút, bình luận chuyên nghiệp nước ngoài, cũng có nhiều bài viết ca ngợi về Việt Nam phê phán các quan điểm sai trái, thù địch..
Tuy vậy, so với yêu cầu phát triển mới của đất nước, vai trò của báo chí, xuất bản trong bảo vệ nền tảng tư tưởng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch vẫn còn những hạn chế, như : Một số cơ quan báo chí, xuất bản vẫn chưa phát huy hết tiềm năng, việc nắm bắt thông tin, quan điểm sai trái, thù địch, phản động chưa kịp thời; có lúc còn lúng túng trong định hướng thông tin trên Internet, mạng xã hội cho các tầng lớp nhân dân, nhất là đoàn viên, thanh niên, sinh viên.. liên quan đến các vụ việc phức tạp, nhạy cảm; việc đấu tranh trực diện phản bác những thông tin, quan điểm sai trái, phản động trên các phương tiện thông tin đại chúng đã có chuyển biến tích cực, nhưng có lúc, có nơi chưa đa dạng về hình thức, có việc còn chậm, chưa sắc bén; hình thức đấu tranh của một số cơ quan báo chí, xuất bản còn đơn điệu, tính thuyết phục trong một số trường hợp không cao; một số cơ quan báo chí, xuất bản vẫn còn tình trạng thương mại hóa, khai thác quá sâu, quá mức các sự việc tiêu cực, giật gân, câu khách, đưa ra xã hội những ấn phẩm kém chất lượng, thậm chí phản cảm; chưa phát huy hết hiệu quả, sức mạnh của công nghệ - thông tin trong tổ chức lực lượng đấu tranh, phản bác quan điểm sai trái, thù địch…Tình hình trên có nhiều nguyên nhân, có cả yếu tố khách quan, phức tạp của bối cảnh thế giới, tuy nhiên nguyên nhân chủ quan vẫn là chính, trong đó có vấn đề về nhận thức của một số cơ quan chủ quản, cơ quan báo chí, xuất bản, chất lượng của phóng viên, biên tập viên.
II. Bối cảnh mới, phương hướng, yêu cầu đặt ra và định hướng giải pháp đối với cơ quan báo chí, xuất bản trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác quan điểm sai trái, thù địch thời gian tới
1. Bối cảnh mới tác động tới vai trò của báo chí, xuất bản trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng
Trước hết, cần khẳng định sự thay đổi nhanh chóng, khó lường của bối cảnh thế giới tác động đến từng quốc gia, trong đó có Việt Nam, đem đến cả thuận lợi, khó khăn, thời cơ và thách thức. Toàn cầu hóa với nhiều biểu hiện mới, sự chi phối của các nước lớn, chủ nghĩa cường quyền với nhiều biểu hiện cực đoan, thách thức luật pháp quốc tế, là cơ hội cho các thế lực phản động, thù địch lợi dụng, chống phá. Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đặt ra nhiều vấn đề mới về kinh tế, xã hội, chủ quyền, an ninh quốc gia, an ninh truyền thống, an ninh phi truyền thống, đặc biệt là không gian mạng, với nhiều vấn đề mới cho các cơ quan báo chí, xuất bản, các phương tiện, công cụ cung cấp thông tin, dữ liệu lớn, điện toán đám mây, thế giới ảo.. Kinh tế thế giới tiềm ẩn nguy cơ khủng hoảng và suy thoái sẽ tác động tới Việt Nam. Các thế lực thù địch lợi dụng những khó khăn bên trong và bên ngoài, kích động làm mất an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Xung đột vũ trang ở một số nơi trên thế giới (chiến tranh Nga- Ucraina). Khu vực châu Á-Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương, trong đó Đông Nam Á có vị trí chiến lược ngày càng quan trọng, là khu vực cạnh tranh gay gắt giữa các cường quốc, tiềm ẩn nhiều bất ổn. Đây cũng là điều kiện để các thế lực thù địch lợi dụng chống phá Đảng và Nhà nước. Tình hình Biển Đông tiềm ẩn nhiều nguy cơ khó lường, các thế lực thù địch tiếp tục xuyên tạc chủ trương của Đảng và Nhà nước trong vấn đề Biển Đông, về dân chủ, nhân quyền, xuyên tạc sự lãnh đạo của Đảng trong xử lý các quan hệ đối ngoại, đồng thời kích động nhân dân, gây bất ổn xã hội. Tình hình dịch bệnh, đặc biệt là đại dịch Covid-19 còn diễn biến phức tạp, tác động đến nước ta, cũng với những thách thức của biến đổi khí hậu…Bối cảnh trên cũng đặt ra cho các cơ quan báo chí, xuất bản đứng trước nhiều thách thức mới trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác quan điểm sai trái, thù địch.
2. Một số yêu cầu đặt ra đối với báo chí, xuất bản trong công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch
- Sự biến đổi nhanh chóng của thực tiễn đặt ra yêu cầu bắt kịp của tư duy, nhận thức, lý luận trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Chủ nghĩa xã hội, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam có nhiều vấn đề mới, chưa có tiền lệ cả về lý luận và thực tiễn, giữa tính phổ quát và giá trị đặc thù, điều này không chỉ đòi hỏi bản lĩnh chính trị, cần có sự hiểu biết, tư duy lý luận sâu sắc của đội ngũ cơ quan báo chí, xuất bản.
- Nhiều vấn đề mới xuất hiện, khó xử lý, nhất là các mối quan hệ lớn trong quá trình phát triển đất nước. Vấn đề này đặt ra giữa yêu cầu nhanh, nhạy, kịp thời, thuyết phục, phù hợp đối tượng của báo chí, xuất bản với tính chính xác, thuyết phục, an toàn trong thông tin cả trước mắt và lâu dài; giữa ứng xử của cơ quan báo chí, xuất bản với đảm bảo định hướng, tránh sai sót không đáng có.
- Mạng xã hội, khoa học và công nghệ phát triển về nhiều khía cạnh: quy mô, nội dung, hình thức,…, sự phát triển, hiện đại hóa của các cơ quan báo chí, xuất bản, các cơ quan báo chí, xuất bản truyền thông đa phương tiện với yêu cầu quản lý, định hướng đáp ứng yêu cầu ổn định và phát triển của đất nước.
- Quan hệ giữa thông tin trên báo chí, xuất bản chính thống và thông tin trên mạng… giữa thông tin đối nội và thông tin đối ngoại, giữa đấu tranh phê phán sai trái, tiêu cực với phòng ngừa lợi dụng, chống phá của các thế lực cơ hội, thù địch; giữa xử lý thông tin đấu tranh vụ việc với tổng thể chiến lược phát triển đất nước, đảm bảo đồng bộ, cùng chiều, tập trung sức mạnh với phát huy tính chủ động, sáng tạo của các cơ quan báo chí, xuất bản.
- Các thế lực thù địch thường xuyên thay đổi âm mưu, thủ đoạn, phối hợp bên trong, bên ngoài để xuyên tạc, chống phá…đặt ra yêu cầu với các cơ quan báo chí, xuất bản không chỉ là công cụ truyền tải, mà còn làm tốt chức năng tuyên truyền, chức năng nhận diện, cảnh báo..
3. Phương hướng
- Nâng cao nhận thức cho cấp ủy, chính quyền các cấp và nhân dân, nhất là đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp về tầm quan trọng của báo chí, xuất bản trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái thù địch, coi đây là nhiệm vụ thường xuyên, trọng yếu để bảo đảm sự ổn định chính trị, xã hội, phát triển bền vững đất nước.
- Kết hợp chặt chẽ giữa “xây” và “chống”, xây là cơ bản , thường xuyên, “chống” phải quyết liệt, hiệu quả. Các cơ quan báo chí, xuất bản cần đổi mới nội dung, phương pháp theo hướng nhanh nhạy, linh hoạt, hiện đại hóa, chủ động nhận diện và đấu tranh trước âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch. Tăng cường tính chủ động, linh hoạt, sáng tạo, bản lĩnh chính trị, năng lực dự báo, tính khoa học, thuyết phục trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái thù địch.
- Xây dựng và hoàn thiện hệ thống thể chế chặt chẽ, hệ thống, hiệu lực, bao gồm các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước, đạo đức xã hội đối với phóng viên báo chí, biên tập viên xuất bản, vừa bảo đảm phát huy dân chủ, sáng tạo, vừa giữ nghiêm kỷ luật, kỷ cương.
-Tăng cường sự thống nhất trong chỉ đạo, thông tin thông suốt, kịp thời; đa dạng về phương pháp, biện pháp, hình thức. Xây dựng đội ngũ phóng viên, biên tạp viên báo chí, xuất bản chuyên nghiệp, phát huy vai trò của các chuyên gia, sự vào cuộc chủ động, tích cực của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị, xã hội và nhân dân. Đầu tư kinh phí, chế độ thỏa đáng; xây dựng cơ chế bảo vệ người tham gia đấu tranh.
4. Một số định hướng giải pháp:
Một là, nâng cao vai trò, trách nhiệm của các cấp ủy Đảng, hệ thống chính trị, người đứng đầu các địa phương, cơ quan, đơn vị đối với các cơ quan báo chí, xuất bản trong công tác đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Thực hiện phương châm kết hợp chặt chẽ giữa "xây" và "chống", lấy "xây" làm chính; phát huy đoàn kết nhất trí trong Đảng, sự đồng thuận trong xã hội. Nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên và nhân dân về âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, nhất là thông tin xấu, độc trên Internet; coi đây là một nhiệm vụ quan trọng trong giai đoạn hiện nay. Đẩy mạnh tuyên truyền những chuẩn mực đạo đức, tấm gương tốt trong cộng đồng; chú trọng việc phát hiện và nhân rộng những điển hình tiên tiến, gương người tốt, việc tốt; lên án, phê phán cái xấu, tiêu cực với phương châm "lấy cái đẹp, dẹp cái xấu". Tôn vinh cơ quan báo chí, xuất bản, phóng viên, biên tập viên có nhiều thành tích, cống hiến.
Hai là, tham mưu, chỉ đạo, thống nhất kế hoạch, định hướng thông tin, xây dựng nhiệm vụ cụ thể trong từng thời kỳ cho các cơ quan báo chí, xuất bản trong đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Hoàn thiện các văn bản chỉ đạo, điều hành, trong đó có các văn bản về bảo đảm an toàn thông tin, an ninh mạng. Cung cấp kịp thời thông tin để các cơ quan thông tin, truyền thông tuyên truyền trung thực, khách quan, thu hút độc giả, góp phần định hướng nhận thức, thái độ và thống nhất hành động trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Đẩy mạnh nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, tiếp tục bổ sung, làm sáng tỏ lý luận về đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, về nền tảng tư tưởng của Đảng, làm rõ luận cứ bảo vệ, đấu tranh. Xử lý nghiêm minh các trường hợp vi phạm; đấu tranh chống suy thoái về tư tưởng chính trị, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, bảo vệ chính trị nội bộ.
Ba là, tăng cường giáo dục đạo đức, bản lĩnh chính trị của báo chí, xuất bản đối với cộng đồng xã hôi, nêu cao ý thức, trách nhiệm của người làm báo chí, xuất bản. Hoàn thiện quy chế, tiêu chuẩn đạo đức của người làm báo, cơ quan báo chí, xuất bản văn hóa. Xác định rõ trách nhiệm xã hội, trách nhiệm chính trị, trách nhiệm pháp lý và trách nhiệm đạo đức nghề nghiệp của đội ngũ những người làm báo, xuất bản đối với từng thông tin, bài viết, ấn phẩm xuất bản của mình đối với công chúng. Khơi nguồn lực trí tuệ, cảm xúc, niềm tin trong nhân dân vào chế độ XHCN, vào thể chế chính trị. Khơi dậy lòng yêu nước, trách nhiệm của công dân đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, trong đó có đội ngũ những người làm báo, xuất bản.
Bốn là, chủ động nắm tình hình hoạt động, âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, phản động. Kịp thời phân tích, tổng hợp, đánh giá, dự báo những biểu hiện mới để sớm có đối sách đấu tranh, ngăn chặn. Nắm chắc tình hình, dự báo đúng các kịch bản, xu hướng, hoạt động chống phá, thù địch… Phân loại đối tượng, nội dung, mức độ tác động để có giải pháp thích hợp. Cần tăng cường phối hợp, phân vai lực lượng báo chí, xuất bản cả ở trung ương và địa phương đảm bảo tính chủ động, rõ trách nhiệm, tránh bao biện làm thay, thụ động. Nâng cao hiệu quả hoạt động của Ban Chỉ đạo 35 ở các địa phương, chất lượng các giải báo chí, ấn phẩm xuất bản. Làm tốt công tác xây dựng kịch bản, cung cấp luận cứ, ứng phó với các tình huống đột xuất, bất ngờ ảnh hưởng tới tư tưởng của cán bộ, đảng viên và nhân dân.
Năm là. tổ chức lực lượng tham gia đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng ở các cơ quan báo chí, xuất bản. Quan tâm đào tạo, bồi dưỡng lực lượng phóng viên, biên tập viên có trình độ chuyên môn sâu, có phẩm chất chính trị, đạo đức tốt trong các đơn vị báo chí, xuất bản các cấp, các ngành, nhất là trong lực lượng quân đội, công an, tuyên giáo làm nòng cốt. Tăng cường tập huấn nghiệp vụ, kỹ năng thông tin, xử lý thông tin, đặc biệt là trên không gian mạng. Phát triển đội ngũ cộng tác viên trẻ trong giới trí thức, văn nghệ sĩ, phóng viên, nhất là đoàn viên, thanh niên, sinh viên trong các nhà trường, cơ quan. Có cơ chế thu hút, trọng dụng, nhất là phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ trẻ.
PGS.TS Phạm Văn Linh
Phó Chủ tịch Hội đồng Lý luận TW
Tài liệu tham khảo:
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới, Nxb CTQG, H. 2005.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Báo cáo 10 năm thực hiện Cương lĩnh 2011, Nxb, CTQG ST.H.2020
- Nghị quyết số 37- NQ/TW ngày 28/3/2014 của Bộ Chính trị, khóa XI về công tác lý luận trong giai đoạn hiện nay
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Văn phòng Trung ương. H. 2021
- Ban Tuyên giáo Trung ương: Phê phán, bác bỏ các quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam. Nxb, CTQG.H.2017.