26/11/2024 lúc 18:31 (GMT+7)
Breaking News

8 nhóm hàng xuất khẩu “tỷ USD” của Việt Nam

VNHN - 2 tháng đầu năm 2019, trị giá xuất khẩu của Việt Nam đạt 36,11 tỷ USD, tăng 4,2%, tương ứng tăng 1,47 tỷ USD so với cùng kỳ năm trước. Đóng góp quan trọng vào kết quả này là 8 nhóm hàng đạt kim ngạch từ 1 tỷ USD trở lên.

VNHN - 2 tháng đầu năm 2019, trị giá xuất khẩu của Việt Nam đạt 36,11 tỷ USD, tăng 4,2%, tương ứng tăng 1,47 tỷ USD so với cùng kỳ năm trước. Đóng góp quan trọng vào kết quả này là 8 nhóm hàng đạt kim ngạch từ 1 tỷ USD trở lên.

Điện thoại các loại và linh kiện tiếp tục giữ vững vị trí số 1, tuy nhiên khác với đà tăng trưởng của một số nhóm hàng xuất khẩu chủ lực, kim ngạch xuất khẩu ngành hàng lớn nhất bị sụt giảm. Cụ thể, trị giá xuất khẩu nhóm hàng này của cả nước đạt 6,75 tỷ USD, giảm 7,9% so với cùng kỳ năm trước.

Thị trường xuất khẩu nhóm hàng này chủ yếu sang EU (28 nước) đạt 1,84 tỷ USD, giảm 8%; thị trường Hoa Kỳ đạt trị giá 1,4 tỷ USD tăng gấp 3,3 lần; thị trường Hàn Quốc đạt 818 triệu USD, tăng 2,7%...

10 nhóm hàng có mức tăng về trị giá lớn nhất trong 2 tháng đầu năm. Điện thoại và một số nhóm chủ lực tăng trưởng âm nên không có mặt trong danh sách này.

Hàng dệt may đạt kim ngạch 4,6 tỷ USD, tăng 11,9%. Hoa Kỳ tiếp tục là thị trường nhập khẩu hàng dệt may lớn nhất từ Việt Nam, trong 2 tháng trị giá xuất khẩu ở thị trường này đạt 2,14 tỷ USD, tăng 9,7% so với cùng kỳ năm trước và chiếm 46,6% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của cả nước.

Các thị trường tiếp theo là thị trường Nhật Bản là 578 triệu USD, tăng 7,9%; EU là 570 triệu USD, tăng 3,8%;;...

Máy vi tính sản phẩm điện tử và linh kiện đạt 4,23 tỷ USD, tăng 3,5%. Trung Quốc là thị trường dẫn đầu với trị giá đạt 1,04 tỷ USD, giảm 8,6%.

Xuất khẩu sang EU đạt 778 triệu USD, tăng 2,2%; Hoa Kỳ đạt 513 triệu USD, tăng 38,8%; Hàn Quốc đạt trị giá 447 triệu USD, tăng 6,3%...

Giày dép các loại đạt 2,63 tỷ USD, tăng 16,5%. Trong 2 tháng đầu năm, Hoa Kỳ là thị trường xuất khẩu lớn nhất đạt trị giá 919 tỷ USD, tăng 14,9%.

Tiếp đến là EU đạt trị giá 696 triệu USD, tăng 8,2%; Trung Quốc đạt trị giá 309 triệu USD, tăng 36,6%; Nhật Bản đạt 182 triệu USD, tăng 13,5%...

Máy móc, thiết bị, dụng cụ và phụ tùng đạt 2,5 tỷ USD, tăng 13,2%. Các thị trường xuất khẩu chủ yếu gồm: Hoa Kỳ với 622 triệu USD, tăng 73,1%; EU đạt 338 triệu USD, tăng 17,6%; Nhật Bản với 285 triệu USD tăng 10,6%; Trung Quốc với 204 triệu USD, giảm 4,2%...

Gỗ và sản phẩm gỗ đạt 1,39 tỷ USD, tăng 13,1%. Hoa Kỳ là thị trường xuất khẩu số 1 với trị giá 637 triệu USD, tăng 33,5%. Tiếp đến là Nhật Bản với 182 triệu USD, tăng 7,3%; Trung Quốc với 152 triệu USD, giảm 9,7%…

Phương tiện vận tải và phụ tùng đạt 1,35 tỷ USD, tăng 3,1%. Các thị trường chính gồm: Nhật Bản với trị giá đạt 408 triệu USD, tăng 11,9%; Hoa Kỳ đạt 228 triệu USD, tăng 31,7%; Singapore đạt trị giá 117 triệu USD, tăng 98,7%…

Thủy sản là nhóm hàng “tỷ USD” thứ 8 với trị đạt 1,11 tỷ USD, tăng 4%. Thị trường xuất khẩu chủ yếu 2 tháng đầu năm là Nhật Bản đạt 180 triệu USD, tăng 12,7%; EU với 166 triệu USD, giảm 9,9%; Hoa Kỳ đạt 178 triệu USD, tăng 8,7%; Trung Quốc đạt 121 triệu USD, tăng 12,1%…

Cũng theo Tổng cục Hải quan, 2 tháng đầu năm kim ngạch xuất khẩu các nhóm hàng nông sản (bao gồm rau quả, hạt điều, hạt tiêu, chè, cà phê, gạo, sắn và sản phẩm sắn, cao su) đạt 2,43 tỷ USD, giảm 13,2% so với cùng kỳ năm 2018.

Tính đến hết tháng 2, xuất khẩu các nhóm hàng nông sản nêu trên sang Trung Quốc đạt 850 triệu USD, giảm 15,4%; sang EU đạt 424 triệu USD, giảm 7,7%; sang Hoa Kỳ đạt 228 triệu USD giảm 15,8%; sang Philippines đạt 160 triệu USD, tăng 46,4%…