26/04/2024 lúc 11:14 (GMT+7)
Breaking News

Pháp lý và thực tiễn về quyền tự do hợp đồng ở Việt Nam giai đoạn hiện nay

VNHN - Quyền tự do hợp đồng là một trong những bộ phận cơ bản cấu thành nội dung quyền tự do kinh doanh. Việc ghi nhận và bảo đảm quyền tự do hợp đồng có tác động to lớn đến việc ghi nhận và thực thi quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp.

VNHN - Quyền tự do hợp đồng là một trong những bộ phận cơ bản cấu thành nội dung quyền tự do kinh doanh. Việc ghi nhận và bảo đảm quyền tự do hợp đồng có tác động to lớn đến việc ghi nhận và thực thi quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp.

Ảnh minh họa

Trước yêu cầu về việc hoàn thiện pháp luật hợp đồng trong điều kiện giao lưu dân sự, kinh tế trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập quốc tế sâu rộng. Thực hiện chủ trương Đảng, Nhà nước ta đã không ngừng hoàn thiện pháp luật, trong đó có pháp luật về hợp đồng nhằm xây dựng nền tảng pháp lý thống nhất, đồng bộ, ổn định cho hệ thống pháp luật dân sự Việt Nam cũng như hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phục vụ hội nhập quốc tế. Tuy nhiên, hiện nay, pháp luật Việt Nam về quyền tự do hợp đồng vẫn còn tồn tại một số bất cập, vướng mắc. Vì vậy, việc nghiên cứu để hoàn thiện các quy định về quyền tự do hợp đồng là rất cần thiết.

Ở Việt Nam, Điều 57 Hiến pháp năm 1992 có ý nghĩa khẳng định quyền tự do kinh doanh là một quyền hiến định và là quy định nền tảng cơ sở cho các quyền pháp định khác về tự do kinh doanh được phát triển trong Bộ luật Dân sự các năm 1995, 2005 và 2015; Luật Doanh nghiệp năm 1999, 2005 và 2014; Luật Thương mại các năm 1997 và 2005; Luật Đầu tư năm 2000, 2005 và 2014… Song song đó, các văn bản pháp quy khác cũng được ban hành nhằm tạo điều kiện cho các chủ thể được thực hiện quyền tự do kinh doanh của mình như: Nghị định số 88/2006/NĐ-CP ngày 29/8/2006 của Chính phủ về đăng ký kinh doanh, Nghị định số 43/2010 ngày 15/4/2010 của Chính phủ về đăng ký doanh nghiệp, Nghị định số 108/2006/NĐ-CP ngày 22/9/2006 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Đầu tư, Nghị định số 118/2015/NĐ-CP ngày 12/11/2015 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Đầu tư năm 2014, Nghị định số 139/2007/NĐ-CP ngày 05/9/2007 cùa Chính phủ hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Doanh nghiệp, Nghị định số 102/2010/NĐ-CP ngày 01/10/2010 hướng dẫn chi tiết thi hành một số điều của Luật Doanh nghiệp, Nghị định số 96/2015/NĐ-CP ngày 19/10/2015 quy định chi tiết một số điều của Luật Doanh nghiệp…

Từ các quy định của pháp luật, có thể thấy, quyền tự do hợp đồng là quyền của các chủ thể được thể hiện ở các khía cạnh chính sau đây: (1) Quyền được tự do bình đẳng, tự nguyện giao kết hợp đồng; (2) Quyền được tự do lựa chọn đối tác giao kết hợp đồng; (3) Quyền được tự do thỏa thuận nội dung giao kết hợp đồng; (4) Quyền được tự do thỏa thuận  thay đổi nội dung hợp đồng trong quá trình thực hiện; (5) Quyền được tự do thỏa thuận các điều kiện đảm bảo để thực hiện hợp đồng; (6) Quyền được tự do thỏa thuận cơ quan tài phán và giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng.

 Những thành tựu cơ bản về quyền tự do hợp đồng

Một là, quyền tự do hợp đồng là quyền cơ bản trong giao kết hợp đồng giữa các chủ thể. Việt Nam đã xây dựng một khung pháp lý khá hoàn chỉnh để điều chỉnh quan hệ hợp đồng, quyền tự do hợp đồng. Trong đó, hệ thống pháp luật điều chỉnh quan hệ hợp đồng ở Việt Nam cơ bản bao gồm: Bộ Luật Dân sự năm 2015, Luật Thương mại năm 2005 và các luật chuyên ngành khác. Việc thông qua các đạo luật này đã đánh dấu một bước pháp điển hóa quan trọng pháp luật về hợp đồng ở Việt Nam, bảo đảm tính thống nhất của pháp luật hợp đồng theo hướng ngày càng bảo đảm quyền tự do hợp đồng và phù hợp với thông lệ quốc tế, đáp ứng yêu cầu hội nhập pháp luật về hợp đồng của Việt Nam.

Hai là, Bộ luật Dân sự năm 2015 đã ghi nhận nhiều cơ chế để bảo đảm việc thực thi quyền tự do hợp đồng. Trong số các đảm bảo đó, đáng lưu ý nhất là việc Bộ luật Dân sự năm 2015 đã mở rộng quyền tự quyết định nội dung hợp đồng của các chủ thể trong quan hệ hợp đồng, hạn chế sự can thiệp của cơ quan công quyền vào hoạt động giao kết, thực hiện hợp đồng.

Ba là, trong thực tiễn, quyền tự do lựa chọn đối tác giao kết hợp đồng giữa các bên được thực hiện khá phổ biến, rộng rãi, các bên giao kết hợp đồng đều nhận thức đầy đủ và thực hiện tốt về quyền năng này trong phạm vi có thể, thể hiện rõ như: Các bên lợi thế trong hợp đồng sẽ có sự lựa chọn đối tác yếu thế hơn để lấn át ý chí khi giao kết hợp đồng với mục đích tìm kiếm lợi ích cao nhất trong quá trình thực hiện hợp đồng với đối tác đó hoặc một thương nhân xuất khẩu hàng may mặc được tự do lựa chọn một đối tác sản xuất, gia công hàng may mặc có uy tín về chất lượng để giao kết hợp đồng gia công hàng may mặc xuất khẩu.

Vẫn còn một số hạn chế, bất cập

Mặc dù Việt Nam đã có một hệ thống pháp luật khá hoàn thiện cho việc điều chỉnh quan hệ hợp đồng và đảm bảo quyền tự do hợp đồng, tuy nhiên, vẫn còn tồn tại những hạn chế, bất cập trong các quy định của pháp luật về quyền tự do hợp đồng, cụ thể:

Thứ nhất, còn mâu thuẫn, chồng chéo giữa các quy định của luật chuyên ngành với Bộ luật Dân sự năm 2015, như:

- Quy định lại những quy định chung của Bộ luật Dân sự hoặc không có sự thống nhất khi quy định về hợp đồng, cụ thể: Bộ luật Dân sự năm 2015 đưa ra các quy định tùy nghi khi quy định về nội dung hợp đồng nhằm bảo đảm quyền tự do hợp đồng của các bên trong hợp đồng, theo nguyên tắc ưu tiên áp dụng các thỏa thuận của các bên so với các quy định của pháp luật, tuy nhiên, các đạo luật chuyên ngành lại không thống nhất trong việc ghi nhận kỹ thuật lập pháp này. Một số đạo luật chuyên ngành khác quy định về hoạt động thương mại đặc thù, ví dụ như Luật Kinh doanh bảo hiểm, Luật Điện lực,… lại thường sử dụng các quy phạm bắt buộc khi quy định về quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng.

- Hiện nay, một số luật chuyên ngành còn quy định lại những quy định chung về hợp đồng đã được quy định trong Bộ luật Dân sự. Ví dụ: Luật Hàng không dân dụng Việt Nam năm 2006 (được sửa đổi, bổ sung năm 2014) có những quy định về hợp đồng trong họat động hàng không như: Vận chuyển hàng hóa, vận chuyển hành khách và hành lý... (Mục 3, 4, 5, 6 chương VI), Luật Thương mại năm 2005 cũng có quy định về hợp đồng dịch vụ (chương III), trong khi đó, Bộ luật Dân sự năm 2015 đã có quy định về các loại hợp đồng cụ thể này tại Mục 10 - Một số hợp đồng thông dụng. Chương XVI Phần thứ ba đã có quy định về hợp đồng vận chuyển hành khách, hợp đồng vận chuyển tài sản, hợp đồng dịch vụ. Việc các luật chuyên ngành có những quy định chồng chéo, mâu thuẫn với các quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015 đã gây phức tạp trong việc áp dụng pháp luật và ảnh hưởng đến quyền tự do hợp đồng.

- Điều 129 Bộ luật Dân sự năm 2015 đã quy định “giao dịch dân sự đã được xác lập bằng văn bản nhưng vi phạm quy định bắt buộc về công chứng, chứng thực mà một bên hoặc các bên đã thực hiện ít nhất 2/3 nghĩa vụ trong giao dịch thì theo yêu cầu của một bên hoặc các bên, Tòa án ra quyết định công  nhận hiệu lực của giao dịch đó. Trong trường hợp này, các bên không phải thực hiện việc công chứng, chứng thực”. Có rất nhiều quy định của các luật chuyên ngành bắt buộc hợp đồng phải có công chứng, chứng thực thì mới có hiệu lực pháp lý: Ví dụ như, quy định tại Điều 122 Luật Nhà ở năm 2014 về Công chứng, chứng thực hợp đồng và thời điểm có hiệu lực của hợp đồng về nhà ở: “Hợp đồng về nhà ở phải có chứng nhận của công chứng hoặc chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp huyện đối với nhà ở tại đô thị, chứng thực của Ủy ban nhân dân xã đối với nhà ở tại nông thôn...”.

Như vậy, quy định này mâu thuẫn với Điều 129 Bộ luật Dân sự năm 2015, nếu áp dụng nguyên tắc ưu tiên áp dụng luật chuyên ngành thì trong trường hợp này, nếu các bên chưa công chứng, chứng thực mà đã thực hiện được 2/3 nghĩa vụ hợp đồng thì hợp đồng vẫn không có giá trị pháp lý. Nếu một bên lợi dụng việc này, yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu thì gây thiệt hại lớn cho bên còn lại, không đảm bảo được tính công bằng cho các bên cũng như sự tự do hợp đồng trong trường hợp cả hai bên đều thống nhất thỏa thuận mà không công chứng, chứng thực.

Thứ hai, những quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015 và Luật Thương mại năm 2005 về hình thức hợp đồng đã bảo đảm quyền tự do lựa chọn hình thức hợp đồng, thể hiện xác định thời điểm có hiệu lực của hợp đồng trên cơ sở công nhận hiệu lực, cam kết của các bên mà không phụ thuộc vào hình thức hợp đồng (trừ trường hợp có thỏa thuận khác, hoặc pháp luật có quy định khác về thời điểm có hiệu lực của hợp đồng). Tuy nhiên, thực tiễn quy định pháp luật Việt Nam cho thấy, pháp luật hợp đồng Việt Nam còn quy định quá nhiều trong việc trường hợp hợp đồng phải tuân thủ điều kiện về hình thức văn bản hợp đồng. Điều này đã làm hạn chế phần nào quyền tự do lựa chọn hình thức hợp đồng.

Thứ ba, đối với mua bán hàng hoá quốc tế (khoản 2 Điều 27 Luật Thương mại năm 2015), phải được thực hiện trên cơ sở hợp đồng bằng văn bản hoặc bằng hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương, trong khi đó, Công ước Viên năm 1980 quy định về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế còn có hình thức đa dạng hơn, chỉ cần có người làm chứng thì hợp đồng cũng được công nhận. Sự giới hạn này hiện nay là một rào cản gây trở ngại cho các chủ thể kinh doanh trong nước, hạn chế quyền tự do kinh doanh khi lựa chọn hình thức giải quyết tranh chấp hợp đồng trong nước, không thể kiện các đối tác nước ngoài khi họ ký kết hợp đồng theo hình thức có người làm chứng là bên môi giới.

Thứ tư, Bộ luật Dân sự năm 2015 vẫn còn một số quy định bất cập, vướng mắc:

- Khoản 3 Điều 420 Bộ luật Dân sự năm 2015 chỉ đề cập đến vai trò của Tòa án mà không đề cập tới vai trò của trọng tài liên quan đến việc điều chỉnh lại hợp đồng. Việc này sẽ dẫn tới bất cập trong quá trình vận dụng khi các bên có thỏa thuận trọng tài.

- Bên cạnh đó, cả 05 điều kiện được quy định tại khoản 1 Điều 420 Bộ luật Dân sự năm 2015 đều không thể hiện được yếu tố hoàn cảnh thay đổi cơ bản là hoàn cảnh mà các bên đã căn cứ để thỏa thuận, thống nhất nội dung hợp đồng. Điểm c khoản 1 điều 420 Bộ luật Dân sự năm 2015 chỉ xác định mức độ thay đổi hoàn cảnh, chứ không thể hiện rõ tính liên quan giữa hoàn cảnh với nội dung của hợp đồng. Quy định này gây ảnh hưởng đến việc xác định tiêu chí khi nào việc thay đổi hoàn cảnh là thay đổi cơ bản, từ đó ảnh hưởng đến lợi ích giữa các bên trong quan hệ hợp đồng.

Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật và đảm bảo quyền tự do hợp đồng  hiện nay

Một là, cần có quy định luật chuyên ngành phải nằm trong mối quan hệ thống nhất với các quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015. Theo đó, các quy định về hợp đồng trong các luật chuyên ngành phải phù hợp với các quy định về hợp đồng trong Bộ luật Dân sự năm 2015, không đề cập đến các nội dung đã được quy định mà chỉ quy định những nội dung mang tính đặc thù về giao kết hợp đồng trong từng lĩnh vực đặc thù. Các quy định cần cụ thể hóa các quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015 nhưng không được trái với Bộ luật Dân sự năm 2015, không trái với nguyên tắc tự do hợp đồng.

Bên cạnh đó, tiếp tục nghiên cứu đề xuất sửa đổi, bổ sung các quy định còn chưa hợp lý trong Bộ luật Dân sự năm 2015 liên quan đến việc bảo đảm thực hiện quyền tự do hợp đồng của doanh nghiệp từ những vướng mắc nêu trên.
Hai là, nâng cao quyền tự do hợp đồng thông qua việc quy định logic hệ thống pháp luật Việt Nam, việc nâng cao quyền tự do kinh doanh giúp các chủ thể kinh doanh có thể thoải mái và tự do hơn trong quá trình giao kết hợp đồng, tuy nhiên, pháp luật cũng phải quy định chặt chẽ vấn đề này, để tránh kẽ hở cho các chủ thể kinh doanh lợi dụng vi phạm luật.

Ba là, cần tăng cường hoạt động tuyên truyền pháp luật về quyền tự do kinh doanh nói chung và quyền tự do trong giao kết thực hiện hợp đồng nói riêng để các chủ thể kinh doanh có thể nắm bắt đầy đủ các quyền năng của mình mà pháp luật đã quy định, bảo vệ, cho phép các chủ thể kinh doanh thực hiện. Sự nắm bắt và hiểu rõ các quyền này có ý nghĩa rất lớn là tạo điều kiện cho các chủ thể kinh doanh biết các quyền của mình cũng như những quy định khác của pháp luật cần phải tuân thủ trong quá trình kinh doanh, tránh các rủi ro pháp lý.

Bốn là, cần tiếp thu kinh nghiệm của pháp luật nước ngoài để cải thiện quyền tự do kinh doanh, tự do hợp đồng của các chủ thể kinh doanh trong nước với đối tác nước ngoài. Việc tiếp nhận pháp luật nước ngoài trong quá trình chuyển đổi, hội nhập hiện nay của Việt Nam là cần thiết, nó mang tính thực tiễn và kinh tế. Việc này sẽ giúp Việt Nam có được một khung pháp lý hiện đại, công bằng và an toàn để thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế và có căn cứ hợp lý để giải quyết tranh chấp nếu phát sinh; tránh được những rủi ro, tranh chấp trong kinh doanh quốc tế do xung đột pháp luật.

Có thể nói, tự do hợp đồng không phải là sự tự do hoàn hảo, tự do vô giới hạn. Sự tự do này là sự tự do bị hạn chế. Không được giao kết hợp đồng bằng cách lừa đảo, đe dọa, không được giao kết hợp đồng để hạn chế hoạt động kinh doanh của các chủ thể khác cũng như của xã hội nói chung. Nhà nước với tư cách là tổ chức của quyền lực công có thể can thiệp vào quan hệ hợp đồng. Sự can thiệp này là một bảo đảm cần thiết cho việc thực hiện nguyên tắc này trong thực tế cuộc sống.

Trong giai đoạn nền kinh tế Việt Nam đang tiến những bước dài trong quá trình hội nhập quốc tế, các giao dịch thương mại trong và ngoài nước không ngừng được xác lập, mang lại nguồn thu lớn cho ngân sách nhà nước. Vì vậy, việc tiếp tục hoàn thiện về hợp đồng nhằm đảm bảo quyền tự do hợp đồng ở Việt Nam là yêu cầu khách quan, đòi hỏi Đảng và Nhà nước cần phải xây dựng những chính sách pháp luật mang tính chất định hướng, đúng đắn, mềm dẻo... để tạo hành lang pháp lý an toàn nhất bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tham gia vào các giao dịch trên cơ sở tôn trọng quyền tự do thỏa thuận, tự định đoạt.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Dương Đăng Huệ (2002), “Hoàn thiện pháp luật về hợp đồng ở Việt Nam”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật.
2. Bùi Ngọc Cường (2004), Một số vấn đề về quyền tự do kinh doanh trong pháp luật kinh tế hiện hành ở Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
3. Phạm Hoàng Giang (2006), “Quyền tự do giao kết hợp đồng trong hoạt động thương mại ở Việt Nam”, Luận văn Tiến sỹ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội.
4. Trang web:- tcdcpl.moj.gov.vn
                      - tapchi.hlu.edu.vn
                      - thongtinphapluatdansu.edu.vn