28/04/2024 lúc 13:24 (GMT+7)
Breaking News

Xây dựng đội ngũ công chức trong quản trị quốc gia theo hướng hiện đại, hiệu quả

Để thực hiện được mục tiêu, yêu cầu và các nội dung trong quản trị quốc gia, đội ngũ công chức có vai trò rất quan trọng, ảnh hưởng đến sự thành bại trong việc thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Năng lực, trình độ, trách nhiệm, tinh thần làm việc của công chức có ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả hoạt động của quản trị quốc gia.

Quản trị quốc gia theo hướng hiện đại, hiệu quả

Trong thời đại phát triển và hội nhập mạnh mẽ hiện nay, sự phát triển của mỗi quốc gia không chỉ đơn thuần dựa vào mỗi chủ thể Nhà nước, mà còn phải phát huy vai trò của tổ chức, doanh nghiệp, công dân, tổ chức phi chính phủ, hội, hiệp hội,... Để phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, bảo vệ quốc phòng, an ninh của đất nước, thực hiện được đầy đủ quyền lợi của người dân thì quản trị quốc gia phải tập hợp, thu hút được mọi nguồn lực từ tài chính, đất đai, công nghệ,... không chỉ từ Nhà nước, mà còn từ mọi người dân, từ khu vực doanh nghiệp, từ tổ chức phi chính phủ, hội, hiệp hội, quỹ,... Đồng thời, quản trị quốc gia còn yêu cầu Nhà nước điều hòa, cân bằng và chia sẻ được các lợi ích quốc gia, lợi ích xã hội và phát huy vai trò, trách nhiệm của các cộng đồng, vùng, miền, địa phương. Nhất là trước các vấn đề về môi trường, dịch bệnh, thiên tai, địch họa,... thì quản trị quốc gia sẽ là phương thức, cách thức mang lại hiệu quả hơn so với thực hiện quản lý nhà nước.

Trước đây, khi thực hiện cơ chế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp, chúng ta cũng đã thực hiện việc quản trị quốc gia, nhưng tư duy và cách thức quản trị quốc gia khi ấy cơ bản nhấn mạnh nội dung và trách nhiệm quản lý nhà nước. Theo đó, Nhà nước thực hiện trách nhiệm và quyền hạn được giao trên mọi phương diện của đời sống: chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng. Vai trò của nhân dân, của cộng đồng, của các tổ chức ngoài nhà nước,... được phát huy, nhưng dưới góc độ giám sát là chủ yếu, với mục tiêu góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của các cơ quan nhà nước. Trong các văn bản pháp luật, trong hoạt động thực tiễn đều chủ yếu đề cập đến vấn đề “quản lý nhà nước”, còn thuật ngữ “quản trị quốc gia” hầu như chưa được đề cập. Từ đó, chế độ công vụ và đội ngũ cán bộ, công chức cũng được xây dựng với các yêu cầu phù hợp, tương thích dưới góc độ “quản lý nhà nước”.

Trải qua quá trình tiến hành đổi mới, nhất là trong giai đoạn hiện nay, để có thể tập trung được mọi nguồn lực, phát huy mọi thế mạnh về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, phát triển đất nước trong sự ổn định, tham gia hội nhập quốc tế, nhất thiết phải chuyển từ quản lý nhà nước đơn thuần sang quản trị quốc gia. Khi đó, quản trị quốc gia cần được tiếp cận từ tư duy mới, để xác định rõ quan niệm, yêu cầu và nội hàm trong điều kiện hiện nay. Từ đó, hoàn thiện chế độ công vụ và xây dựng, quản lý đội ngũ công chức có đủ số lượng, chất lượng phù hợp. Tại Đại hội XIII của Đảng, lần đầu tiên khái niệm quản trị quốc gia được đề cập: “Đổi mới quản trị quốc gia theo hướng hiện đại, nhất là quản lý phát triển và quản lý xã hội. Xây dựng bộ máy nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa tinh gọn, hiệu lực và hiệu quả; đẩy mạnh phân cấp, phân quyền bảo đảm quản lý thống nhất, phát huy tính chủ động, sáng tạo và trách nhiệm của các cấp, các ngành”(1).

Ở Việt Nam, ba trong các phương hướng cơ bản để thực hiện các mục tiêu phát triển đất nước được đề cập trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) đó là phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất. Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa với cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ, phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên,... Trong điều kiện và bối cảnh hiện nay, để đạt được hiệu quả quản trị thì không chỉ cần phát huy vai trò, trách nhiệm của Nhà nước, mà còn cần huy động sức mạnh của toàn hệ thống chính trị, chú trọng hoàn thiện thể chế, kiến tạo “luật chơi, sân chơi và người chơi” phù hợp với tiến trình phát triển quốc gia.

Trong mối quan hệ với các nước trên thế giới, Việt Nam đang tiến hành đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa, hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy, thành viên tích cực, có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế; bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi.

Quản trị quốc gia hướng đến mục tiêu hiện đại, hiệu quả, nghĩa là bộ máy nhà nước phải được tổ chức tinh gọn hợp lý, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, chú trọng vai trò định hướng, điều tiết, thiết lập tầm nhìn phát triển, hướng đến mục tiêu quản trị hiệu quả. Tầm nhìn quản trị quốc gia cần được cụ thể theo các cấp độ quản trị chiều dọc, chiều ngang, từ Trung ương đến cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã cho tới các ngành, các lĩnh vực, nhưng phải bảo đảm tính kết nối và liên thông. Quản trị trong từng địa bàn đơn vị hành chính phải gắn với và đạt trong quản trị quốc gia, là những véc-tơ cùng chung một hướng tới quản trị quốc gia. Tính hiện đại, hiệu quả của quản trị quốc gia còn thể hiện ở hoạt động của tổ chức hội, hiệp hội, doanh nghiệp và người dân. Các hoạt động này không chỉ dừng lại ở giám sát, kiểm tra, phản biện, mà còn mở rộng ra dưới các hoạt động tham gia đóng góp nguồn lực, tham gia hoạch định chính sách, thậm chí trực tiếp thực hiện mục tiêu phát triển. Đồng thời, cùng tập trung triển khai, ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số và hiện đại hóa phương tiện, thiết bị làm việc. Tổng hòa các hoạt động như thế mới bảo đảm tính hiện đại, hiệu quả.

Với cách tiếp cận quản trị quốc gia như trên, có thể thấy để quản trị quốc gia hiện đại, hiệu quả, cần chú ý các nội dung sau: 1- Bộ máy nhà nước ở Trung ương và chính quyền địa phương phải được tổ chức tinh gọn, chức trách, nhiệm vụ, quyền hạn phải được quy định và thực hiện rõ ràng, minh bạch. Đổi mới chế độ công vụ, công chức theo vị trí việc làm; 2- Huy động được mọi nguồn lực vào sự phát triển của đất nước, không chỉ là ngân sách tài chính, mà còn các nguồn lực khác, như nhân lực, nhân tài, công nghệ, kỹ thuật, kinh nghiệm, trí thức,...; các hoạt động của Nhà nước phải phù hợp với yêu cầu phát triển và sử dụng hiệu quả nguồn lực; 3- Thu hút và trọng dụng nhân tài, không phân biệt quốc tịch, vùng, miền, độ tuổi (cần có tổng công trình sư cho từng lĩnh vực phát triển); nâng cao chất lượng đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao; 4- Tạo điều kiện để mọi công dân, mọi tổ chức hội, hiệp hội, doanh nghiệp cùng tham gia, có trách nhiệm đối với mọi hoạt động, chương trình phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội - an ninh - quốc phòng thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển quốc gia; nâng cao chất lượng y tế và hệ thống an sinh xã hội phục vụ nhân dân; 5- Đẩy mạnh, mở rộng hợp tác, hội nhập quốc tế; tranh thủ và tiếp thu ứng dụng thành tựu khoa học - công nghệ tiên tiến; liên kết, hợp tác với cơ sở nghiên cứu khoa học và đào tạo danh tiếng.

Trong điều kiện ở Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam - Đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của Nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Đảng Cộng sản Việt Nam gắn bó mật thiết với nhân dân, phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình. Các tổ chức của Đảng và đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Do đó, để thực hiện tốt các nội dung của quản trị quốc gia theo hướng hiện đại, hiệu quả, cần nghiên cứu đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng phù hợp với bối cảnh và điều kiện mới, phù hợp với đặc điểm của quản trị quốc gia.

Các nguyên tắc của quản trị quốc gia theo hướng hiện đại, hiệu quả trong điều kiện Việt Nam có thể bước đầu định hình như sau:

- Bảo đảm sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện, tuyệt đối của Đảng trong quản trị quốc gia.

- Sự tham gia rộng rãi của người dân, tổ chức phi chính phủ, doanh nghiệp.

- Bảo đảm tính pháp quyền toàn diện, thượng tôn pháp luật và đề cao trách nhiệm của Nhà nước, của tổ chức, công dân khi tham gia hoạt động quản trị quốc gia.

- Bảo đảm tính công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình trong hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân có thẩm quyền làm rõ thông tin, giải thích kịp thời, đầy đủ về quyết định, hành vi của mình trong khi thực hiện nhiệm vụ, công vụ được giao.

- Mọi hoạt động thuộc nội dung của quản trị quốc gia phải đáp ứng kỳ vọng và sự hài lòng của người dân và xã hội ở mức cao.

- Mở rộng hợp tác và quan hệ quốc tế, nâng cao vị thế và vai trò của quốc gia trên trường quốc tế; trong tham gia giải quyết các vấn đề khu vực và toàn cầu.

- Thực hiện quản trị quốc gia phải bảo đảm sự đồng thuận và công bằng xã hội, phát triển bền vững, ổn định.

Xây dựng đội ngũ công chức trong quản trị quốc gia hiện đại, hiệu quả

Thời gian qua, công tác quản lý và xây dựng đội ngũ công chức không ngừng được đổi mới, cải tiến, chất lượng đội ngũ công chức có những bước được nâng cao, nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu quản trị quốc gia, nhất là trong điều kiện xây dựng  Nhà nước pháp quyền XHCN, kinh tế thị trường định hướng XHCN và nền dân chủ XHCN với cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ, phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên,....

Luật Cán bộ, công chức được ban hành từ năm 2008, đến nay đã 15 năm; theo đó, cơ chế quản lý công chức của nước ta đã chuyển từ hệ thống chức nghiệp sang hệ thống việc làm kết hợp với tiêu chuẩn chức danh, nhưng đến nay danh mục vị trí việc làm đối với cơ quan, tổ chức, đơn vị vẫn chưa được xây dựng hoàn chỉnh và thống nhất, vẫn còn nhiều lúng túng. Biên chế công chức chưa thực sự gắn với vị trí việc làm và dựa trên vị trí việc làm. Việc tuyển dụng, sử dụng, đãi ngộ và quản lý công chức theo vị trí việc làm vẫn chưa được thay đổi đầy đủ, toàn diện; vẫn cơ bản dựa trên chỉ tiêu biên chế và chưa mạnh dạn phân cấp. Chế độ công vụ theo vị trí việc làm, nhưng vẫn còn thi nâng ngạch. Đào tạo, bồi dưỡng công chức chưa được đổi mới, vẫn thiên về yêu cầu riêng của cá nhân để đăng ký bồi dưỡng, nâng cao trình độ. Cải cách tiền lương vẫn chậm, chưa theo kịp với sự phát triển và tương thích với kinh tế thị trường; việc trả lương chưa gắn với vị trí việc làm...

Do đó, để có đội ngũ công chức phù hợp với quản trị quốc gia hiện đại, hiệu quả, trong bối cảnh xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, kinh tế thị trường định hướng XHCN và nền dân chủ XHCN cùng với cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư; kinh tế - xã hội ngày càng phát triển; truyền thông rộng rãi; trình độ dân trí ngày một nâng cao; hội nhập quốc tế ngày một sâu rộng cùng với sự quyết liệt của Đảng và Nhà nước trong phòng, chống tham nhũng, tiêu cực,... cần thực hiện một số giải pháp sau:

Chính phủ thống nhất quản lý hệ thống danh mục vị trí việc làm:

Chính phủ cần phải quy định phương pháp xác định vị trí việc làm để thực hiện thống nhất giữa các bộ, ngành và địa phương. Hiện nay, Chính phủ và Bộ Nội vụ còn thiếu văn bản quy định phương pháp xác định vị trí việc làm, dễ dẫn tới mỗi nơi làm một kiểu.

Vị trí việc làm, khung danh mục vị trí việc làm cần được quy định lại về thẩm quyền để bảo đảm sự quản lý thống nhất của Trung ương, bảo đảm nguyên tắc: các tổ chức có chức năng, nhiệm vụ như nhau thuộc các bộ, ngành và địa phương khác nhau thì Khung danh mục vị trí việc làm phải giống nhau, nghĩa là phải cùng chung một danh mục vị trí việc làm.

Hiện nay, nhiều ý kiến cho rằng việc Chính phủ giao cho các bộ, ngành và địa phương tự xác định danh mục vị trí việc làm, tự thẩm định và tự phê duyệt vị trí việc làm của các tổ chức thuộc quyền quản lý là chưa khoa học, dẫn đến hệ thống vị trí việc làm không được quản lý thống nhất. Cùng với Bộ Nội vụ, các bộ, ngành cũng ban hành các thông tư quy định trong ngành mình về vị trí việc làm. Vì vậy, việc quản lý vị trí việc làm cần được xem xét lại để làm căn cứ hoàn thiện đổi mới toàn diện và đồng bộ chế độ công vụ, công chức. Trước mắt, cần nghiên cứu và cân nhắc lại quan niệm và cách tiếp cận về vị trí việc làm và quản lý vị trí việc làm... Cân nhắc để tiếp cận theo hướng: Chức năng, nhiệm vụ của mỗi tổ chức là cơ sở để xác định danh mục vị trí việc làm. Do đó, các tổ chức có chức năng, nhiệm vụ giống nhau thì phải cùng một danh mục vị trí việc làm.

Từ đó, Chính phủ (trực tiếp là Bộ Nội vụ) xây dựng và quy định danh mục vị trí việc làm cho các tổ chức thuộc bộ, ngành, địa phương để thực hiện thống nhất trong cả nước. Ví dụ: Sở Nội vụ ở các tỉnh đều giống nhau về chức năng, nhiệm vụ thì đương nhiên danh mục vị trí việc làm phải giống nhau. Cho nên, tất cả 63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đều có danh mục vị trí việc làm như nhau. Do phạm vi quản lý, đối tượng phục vụ, khối lượng công việc của sở nội vụ giữa các tỉnh, thành phố là không giống nhau, cho nên số lượng biên chế cũng nhiều, ít khác nhau.

Đẩy mạnh phân cấp quản lý biên chế:

Biên chế cán bộ, công chức được xác định trên cơ sở danh mục vị trí việc làm, số lượng nhiều hay ít phụ thuộc vào phạm vi quản lý, khối lượng công việc, tổ chức lao động của từng cơ quan, tổ chức. Để phát huy vai trò tự quản của chính quyền địa phương, cần đẩy mạnh phân cấp quyền quyết định biên chế cho chính quyền địa phương theo hướng:

- Biên chế các cơ quan Trung ương do một cấp quản lý thống nhất và quyết định.

- Biên chế địa phương được phân cấp cho chính quyền địa phương tự quyết định để phát huy tính tự quản, tự chịu trách nhiệm của chính quyền địa phương.

- Thay đổi tư duy về giao và phân bổ kinh phí: Cấp có thẩm quyền không giao kinh phí cho các đơn vị, tổ chức theo số lượng biên chế được phê duyệt mà chuyển sang giao kinh phí theo nhiệm vụ và kế hoạch công việc được giao hằng năm.

- Bãi bỏ các thuật ngữ “biên chế tối thiểu, biên chế tối đa”. Theo vị trí việc làm thì biên chế luôn là một hằng số, không thể có biên chế tối thiểu, biên chế tối đa.

- Về tinh giản biên chế, cần thực hiện đúng với tư tưởng và các nhiệm vụ, giải pháp đã quy định tại Nghị quyết số 39-NQ/TW, ngày 17-4-2015, của Bộ Chính trị, “Về tinh giản biên chế và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức”, với mục đích nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, đưa người không làm được việc ra khỏi đội ngũ để tuyển dụng người làm được việc vào công vụ.

Về phân quyền, phân cấp quản lý công chức:

Quản lý công chức có nhiều nội dung, như tuyển dụng, điều động, phân công, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, đánh giá, trả lương và đãi ngộ, khen thưởng, kỷ luật, thôi việc,... Để khắc phục hạn chế và đổi mới cơ chế quản lý công chức theo vị trí việc làm (như ở trên đã phân tích), cần đẩy mạnh phân cấp một số nội dung trong quản lý công chức. Theo đó, Chính phủ và các cơ quan quản lý công chức chỉ nên quy định hoặc quyết định một số nội dung. Ví dụ như:

- Quy định danh mục vị trí việc làm trong từng cơ quan, tổ chức, đơn vị. Đối với các tổ chức có tính đặc thù, riêng biệt thì cơ quan quản lý công chức phải xây dựng và trình Chính phủ (hoặc giao Bộ Nội vụ) quyết định.

 - Quy định tiêu chuẩn chung đối với công chức và các chức danh lãnh đạo, quản lý trong công vụ.

- Quy định cơ chế tuyển dụng công chức theo hướng:

+ Công dân muốn trở thành công chức phải qua kiểm tra chất lượng đầu vào.

+ Giao quyền tuyển dụng công chức cho các đơn vị trực tiếp sử dụng theo nguyên lý: Ai dùng thì người đó tuyển và chịu trách nhiệm về chất lượng đội ngũ công chức. Bãi bỏ phương thức “một người tuyển cho người khác dùng”; cấp trên tuyển cho cấp dưới sử dụng.

+ Thực hiện chế độ công chức hợp đồng đồng thời với chế độ tuyển dụng lâu dài (hay còn gọi là tuyển dụng suốt đời).

- Phân cấp trong một phạm vi nhất định việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, kỷ luật, khen thưởng công chức.

- Quy định chế độ tiền lương theo vị trí việc làm, chế độ phụ cấp, đãi ngộ khác.

Các thẩm quyền khác, như tuyển dụng, hợp đồng, bổ nhiệm ngạch, đào tạo, bồi dưỡng, trả lương, đãi ngộ,... cần phân cấp hoặc giao cho cấp trực tiếp sử dụng công chức.

Thực hiện chính sách thu hút, trọng dụng nhân tài; bồi dưỡng nâng cao chất lượng đội ngũ công chức:

Căn cứ vào Chiến lược quốc gia về thu hút, trọng dụng nhân tài đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050, Chính phủ cần ban hành Nghị định quy định Khung các chính sách thu hút, trọng dụng nhân tài để các bộ, ngành và địa phương cụ thể hóa và triển khai thực hiện.

Nhân tài phải được xác định với các tiêu chí cụ thể: có đức, có tài, có sản phẩm công trình sáng tạo được ứng dụng hiệu quả vào thực tiễn, không phân biệt lứa tuổi, bằng cấp. Nhân tài trong lĩnh vực khoa học, công nghệ, kỹ thuật, nghệ thuật, thể thao khác với nhân tài trong lĩnh vực chính trị, lãnh đạo, quản lý.

Việc sử dụng, trọng dụng nhân tài cần đổi mới theo nguyên tắc bình đẳng, thực tài: Không phân biệt độ tuổi, già trẻ, giới tính; dân tộc, vùng, miền... trong tuyển dụng, bầu cử, bổ nhiệm, trọng dụng, quy hoạch; cứ làm được việc và có tâm vô tư trong sáng thì đều được dùng. Kiên quyết thay thế nhân sự không làm được việc hoặc bè phái, mất đoàn kết, tiêu cực, nhũng nhiễu; xử lý trách nhiệm người tiến cử không đúng người.

Đổi mới công tác nhân sự, lựa chọn người giữ các chức vụ lãnh đạo, quản lý ngoài việc tuân thủ nguyên tắc: Đảng lãnh đạo; phát huy dân chủ ở cơ sở. Phải lựa chọn được người xứng đáng có cả đức và tài, đáp ứng yêu cầu của vị trí việc làm (chức danh lãnh đạo, quản lý). Lấy Đức là điều kiện cần, làm gốc, làm căn bản, coi trọng tiêu chí Liêm chính, Trách nhiệm, Tự trọng trong phạm trù Đức. Còn Tài là điều kiện đủ, cần chú ý nhất việc quy tụ, đoàn kết, làm việc hiệu quả, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Không làm được việc phải bố trí người khác thay, không để “ôm ghế”. Phòng, chống tình trạng chủ quan, duy ý chí, áp đặt, tiêu cực. Người tiến cử, người giới thiệu phải chịu trách nhiệm về việc tiến cử, giới thiệu của mình. Không lấy tuổi làm điều kiện lựa chọn mà lấy uy tín, sức khỏe, liêm chính, hiệu quả công việc làm căn cứ để lựa chọn, giới thiệu.

Xây dựng các quy định quản lý công vụ, công chức theo vị trí việc làm:

- Thống nhất chế độ công vụ. Không phân biệt công chức xã, phường, thị trấn với công chức cấp huyện, cấp tỉnh,... Việc tuyển dụng, sử dụng và quản lý công chức cấp xã được thực hiện thống nhất như đối với cán bộ, công chức ở cấp huyện trở lên.

- Mọi quy định về tuyển dụng, phân công, đánh giá, phân loại, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bổ nhiệm, tiền lương,... đều được thực hiện trên cơ sở vị trí việc làm.

- Mỗi vị trí việc làm chỉ quy định một ngạch chức danh công chức, là điều kiện để bỏ thi nâng ngạch. Ai làm việc ở vị trí nào thì bổ nhiệm vào ngạch tương ứng và hưởng lương ở vị trí đó.

- Đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ thực hiện trên cơ sở đăng ký của công chức.

- Bổ sung vào quy trình tuyển chọn lãnh đạo, quản lý quy định: Cấp trưởng được giới thiệu cấp phó và chịu trách nhiệm về việc giới thiệu của mình.

- Đối với nhân tài - người có phẩm chất, trình độ và năng lực vừa hồng, vừa chuyên; đã có kinh nghiệm và có sản phẩm, công trình, đề án sáng tạo được ứng dụng vào thực tiễn được xét tuyển thẳng vào công chức và làm việc ở vị trí nào thì hưởng lương ở vị trí đó.

- Đánh giá công chức trên cơ sở thực hiện nhiệm vụ ở vị trí việc làm đã được phân công và gắn với sản phẩm, kết quả công tác, ý thức xây dựng đơn vị và đoàn kết, phối hợp công tác tốt. Thực hiện nghiêm túc, hiệu quả Quy định 124-QĐ/TW, ngày 4-10-2023, của Bộ Chính trị,  “Về việc kiểm điểm và đánh giá, xếp loại chất lượng hằng năm đối với tập thể, cá nhân trong hệ thống chính trị”, đặc biệt là yêu cầu phải “lượng hóa bằng sản phẩm cụ thể” các tiêu chí đánh giá cán bộ, đảng viên./.

TS Trần Anh Tuấn

Nguyên Thứ trưởng Bộ Nội vụ, Chủ tịch Hiệp hội Khoa học Hành chính Việt Nam

-----------------------------

(1) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 220

...