09/01/2025 lúc 22:39 (GMT+7)
Breaking News

Truyền thông khoa học trong kỷ nguyên số: Động lực kiến tạo xã hội tri thức và phát triển bền vững

Để đưa đất nước tiến bước vững chắc vào kỷ nguyên mới – kỷ nguyên của sự trỗi dậy, phát triển thịnh vượng và sánh vai cùng các cường quốc năm châu, hiện thực hóa khát vọng của toàn dân tộc và tâm nguyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh, hơn bao giờ hết, Đảng, Nhà nước và Nhân dân đặt niềm tin sâu sắc vào đội ngũ trí thức, các nhà khoa học – những người tiên phong, là động lực cốt lõi thúc đẩy đổi mới sáng tạo, kiến tạo đột phá và tạo sức bật mạnh mẽ để đạt được mục tiêu phát triển nhanh và bền vững.

Trong hành trình đó, truyền thông khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo (KH,CN&ĐMST) không chỉ là cầu nối mà còn là sức mạnh chiến lược, đóng góp quan trọng vào sự phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia.

Ảnh minh họa - TL

Ở Việt Nam, sự phát triển của khoa học và công nghệ, quá trình hội nhập quốc tế đã và đang tác động mạnh mẽ đến nhận thức và hoạt động bảo tồn, truyền bá, sáng tạo văn hóa, nghệ thuật; giáo dục - đào tạo; ngôn ngữ; báo chí, xuất bản, quảng cáo, truyền thông; điện ảnh... Đảng và Nhà nước ta luôn xác định và khẳng định vai trò, vị trí, tầm quan trọng của KH&CN, luôn coi KH&CN là quốc sách hàng đầu.

Qua gần 40 năm đổi mới đất nước, KH&CN đã từng bước khẳng định vai trò động lực quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc. KH&CN hiện hữu trong tất cả các ngành, lĩnh vực, các cấp, các cơ quan, đơn vị, địa phương. Nhận thức đầy đủ về vai trò của KH&CN, đi đôi với sự quan tâm đúng mức, cụ thể, thiết thực của các cấp, các ngành, các địa phương, cơ quan, đơn vị là vấn đề quan trọng số một để KH&CN có thể phát triển và thực hiện tốt sứ mệnh của mình.

Việt Nam đã cho thấy được nhiều nỗ lực để nâng cao năng lực nghiên cứu và phát triển cơ sở hạ tầng KH&CN, đồng thời tăng cường hiểu biết, nâng cao nhận thức và sự quan tâm của công chúng đối với KH,CN&ĐMST. Để KH&CN thực sự trở thành động lực quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc; nền tảng và động lực để đổi mới mô hình tăng trưởng; tiêu chí nâng cao sức mạnh tổng hợp, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, năng lực cạnh tranh của nền kinh tế; một trong những khâu đột phá để phát triển nhanh và bền vững thì công tác truyền thông KH&CN đóng vai trò hết sức quan trọng.

Những năm qua, công tác truyền thông KH,CN&ĐMST đã có những bước tiến vượt bậc, ngày càng khẳng định được vai trò quan trọng góp phần giới thiệu những thành tựu nổi bật của khoa học trong nước và thế giới. Bên cạnh đó, Đảng và Nhà nước ta đã chỉ đạo nhiều nội dung quan trọng mà ngành KH&CN cần thực hiện, đó là KH&CN cần thực hiện tốt hơn vai trò động lực, dẫn dắt của mình; quan tâm làm tốt hơn nữa việc xây dựng, thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, cơ chế, chính sách; huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn lực KH&CN trong và ngoài nước; việc xây dựng thể chế, cơ chế, chính sách phát triển thị trường KH&CN phải hướng tới phục vụ sản xuất kinh doanh, lấy doanh nghiệp làm trọng tâm; đẩy mạnh công tác tuyên truyền chính sách liên quan đến KH&CN, truyền cảm hứng, tôn vinh trí thức, nhà khoa học;…

Theo đó, truyền thông giữ vai trò chủ đạo trong công tác giới thiệu, phổ biến chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Qua các kênh truyền thông, lãnh đạo các cấp có thêm nhiều thông tin về vai trò, vị trí, đóng góp của KH,CN&ĐMST, công chúng nhận thức rõ hơn về tính chất quyết định phát triển lực lượng sản xuất, nâng cao năng lực cạnh tranh, hiệu quả của sản phẩm, hàng hóa và của cả nền kinh tế. Truyền thông góp phần tạo được sự đồng thuận, ủng hộ, tham gia của toàn xã hội, biến thành hành động, đẩy mạnh hơn nữa việc áp dụng KH&CN vào công tác quản lý, sản xuất và đời sống.

Thời gian qua, trong điều kiện còn rất nhiều khó khăn cả về nguồn nhân lực và điều kiện kinh tế, cơ sở vật chất, nhưng ngành KH&CN đã có nhiều nỗ lực, vượt qua khó khăn, thử thách và đã đạt được nhiều thành tích có ý nghĩa, góp phần đáng kể vào thành tích chung của cả nước. Nổi bật là: Lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn, đã đóng góp vào xây dựng chủ trương, đường lối, chính sách, trực tiếp nhất là Dự thảo Văn kiện Đại hội XIII của Đảng; thực hiện các chương trình, nhiệm vụ khoa học lớn, như Đề án Nghiên cứu, biên soạn bộ Lịch sử Việt Nam; xây dựng bộ Địa chí quốc gia Việt Nam; nghiên cứu các xu thế mới của thế giới (như cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư...).

Khoa học cơ bản đạt được nhiều thành tựu, thể hiện qua các chỉ số xếp hạng, công bố quốc tế. Số lượng bài báo công bố quốc tế ISI của Việt Nam trong giai đoạn 2016 - 2020 tăng trung bình 20%. Riêng trong năm 2020, công bố quốc tế của Việt Nam tăng 45% so với năm 2019.

Khoa học – công nghệ ứng dụng thể hiện những bước tiến rõ nét về trình độ công nghệ. Chỉ số đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng tăng từ 33,6% bình quân giai đoạn 2011 - 2015 lên 45,2% giai đoạn 2016 - 2020. Khoa học - công nghệ ngày càng đóng góp nhiều vào giá trị gia tăng của sản phẩm hàng hóa.

tốc độ tăng năng suất lao động bình quân giai đoạn 2016 - 2020 là 5,8%/năm (cao hơn mức 4,3%/năm của giai đoạn 2011 - 2015). Tỷ trọng giá trị xuất khẩu sản phẩm công nghệ cao trong tổng giá trị xuất khẩu hàng hóa tăng từ 19% năm 2010 lên khoảng 50% năm 2020. Chỉ số đổi mới sáng tạo của Việt Nam trong những năm gần đây liên tục tăng vượt bậc, năm 2020 xếp thứ 42/131 quốc gia, dẫn đầu nhóm quốc gia có cùng mức thu nhập và đứng thứ 3 trong khu vực Đông Nam Á (sau Xin-ga-po và Ma-lai-xi-a).

Hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo Việt Nam bắt đầu được hình thành và phát triển. Hiện nay, có khoảng hơn 3.000 doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo tại Việt Nam. Số lượng vốn được công bố đầu tư vào các doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo đạt xấp xỉ 1 tỷ USD liên tiếp trong 2 năm gần đây, tăng gấp 3 lần so với năm 2017, đưa Việt Nam trở thành quốc gia năng động thứ 3 Đông Nam Á về khởi nghiệp sáng tạo.

Nguồn lực tài chính từ xã hội cho khoa học - công nghệ tăng mạnh. Tỷ trọng đầu tư giữa Nhà nước và doanh nghiệp được cải thiện theo chiều hướng tích cực. Nếu 10 năm trước đây, kinh phí hoạt động khoa học - công nghệ chủ yếu dựa vào ngân sách nhà nước (chiếm khoảng 70% - 80% tổng đầu tư cho khoa học - công nghệ), thì nay đầu tư từ ngân sách nhà nước và từ doanh nghiệp đã tương đối cân bằng, với tỷ lệ tương ứng là 52% và 48%.

Nghiên cứu khoa học - công nghệ đã có nhiều đóng góp tích cực trong hoạt động phòng, chống dịch bệnh COVID-19. Đây là kết quả của đầu tư nghiên cứu khoa học và công nghệ trong một thời gian dài, đã tạo nền tảng để các tổ chức nghiên cứu phát triển nhanh các sản phẩm, như test-kit, vắc-xin, rô-bốt tự hành, công nghệ truy vết...

Hệ thống các tổ chức khoa học - công nghệ phát triển mạnh, đội ngũ nhân lực khoa học - công nghệ phát triển cả về số lượng và chất lượng với khoảng 72.990 cán bộ nghiên cứu tương đương toàn thời gian (đạt 7,6 người/vạn dân), trong đó, có nhiều nhà khoa học uy tín, được thế giới công nhận. Hệ thống sở hữu trí tuệ và tiêu chuẩn, đo lường, chất lượng ngày càng hoàn thiện, góp phần khuyến khích hoạt động nghiên cứu sáng tạo trong nước, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh, nâng cao chất lượng, khả năng cạnh tranh của sản phẩm, hàng hóa.

Hoạt động khoa học - công nghệ liên tục đổi mới, tham gia hiệu quả vào các khâu trong quá trình sản xuất của các ngành, lĩnh vực:

Trong lĩnh vực nông nghiệp: khoa học - công nghệ đóng góp trên 30% giá trị gia tăng của ngành và 38% trong sản xuất giống cây trồng, vật nuôi, góp phần đưa Việt Nam vào nhóm các nước xuất khẩu hàng đầu thế giới về gạo, cà-phê, hồ tiêu, cao su, điều nhân...

Trong lĩnh vực công nghiệp, xây dựng, giao thông: hoạt động khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo tiếp tục hỗ trợ phát triển sản phẩm, hàng hóa mang nhãn hiệu Việt Nam có giá trị gia tăng và tính cạnh tranh cao trên thị trường; nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm; nâng cao tỷ lệ nội địa hóa, làm chủ công nghệ trong các lĩnh vực cơ khí chế tạo, thiết bị điện, công nghiệp hỗ trợ...

Trong lĩnh vực bảo vệ và chăm sóc sức khỏe cộng đồng: nhiều công nghệ và kỹ thuật tiên tiến đã được áp dụng trong chẩn đoán và điều trị, giúp nâng cao chất lượng dịch vụ khám, chữa bệnh, giảm chi phí cho người dân và xã hội. Dù là nước đang phát triển, nhưng Việt Nam đã nằm trong tốp 3 khu vực Đông Nam Á và 43 nước trên thế giới tự sản xuất được vắc-xin, rất thành công trong công tác phòng ngừa và thanh toán các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm; làm chủ được các kỹ thuật và công nghệ y học hiện đại ở trình độ cao, như ghép tạng và đa tạng,... Đặc biệt, trong đại dịch COVID-19, chúng ta đã kịp thời đặt hàng nghiên cứu, phát triển kít xét nghiệm nhanh, hỗ trợ truy vết người tiếp xúc, thiết kế, sản xuất rô-bốt, máy thở, phác đồ điều trị và kháng thể đơn dòng để sản xuất thuốc đặc hiệu điều trị COVID-19, nghiên cứu để sản xuất vắc-xin.

Trong lĩnh vực quốc phòng và an ninh quốc gia: khoa học - công nghệ đã góp phần thiết kế, chế tạo mới và cải tiến được nhiều loại vũ khí, trang thiết bị kỹ thuật công nghệ cao; xây dựng được các hệ thống giám sát và kiểm soát an toàn, an ninh thông tin trên không gian mạng.

Các kết quả nói trên của ngành KH&CN đã được các cơ quan thông tấn – báo chí lan tỏa trong xã hội góp phần khẳng định vai trò, vị trí của ngành KH&CN trong phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng - an ninh, truyền cảm hứng cho cộng đồng các nhà quản lý, nhà khoa học và thế hệ trẻ.

Công tác tuyên truyền khoa học và công nghệ cần được nâng tầm thành một nhịp cầu vững chắc, đưa những tri thức, tiến bộ khoa học và công nghệ đến gần hơn với quần chúng, thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống và sản xuất. Đây không chỉ là nhiệm vụ phổ biến tri thức, mà còn là hành trình khơi nguồn cảm hứng, đánh thức tiềm năng sáng tạo, và lan tỏa khát vọng đổi mới trong cộng đồng. Một nền văn hóa đổi mới sáng tạo sẽ chỉ thực sự hình thành khi sự hiểu biết và tình yêu khoa học được nuôi dưỡng từ gốc rễ, đặc biệt trong giới trẻ – thế hệ kiến tạo tương lai. Đó là khi mỗi cá nhân không chỉ tiếp nhận tri thức mà còn biết biến tri thức thành hành động, góp phần xây dựng một xã hội trọng khoa học, đầy đam mê sáng tạo và tràn ngập tinh thần cải tiến, sẵn sàng đối mặt và giải quyết những thách thức của thời đại mới.

TS. Đinh Văn Sĩ

...