Để tránh tiền mất, tật mang, nhà đầu tư cần trang bị một vốn kiên thức về thị trường khá mới mẻ này. PV có một cuộc trao đổi với LS Vũ Văn Biên, Giám đốc Công ty Luật TNHH An Phước.
LS Vũ Văn Biên, Giám đốc Công ty Luật TNHH An Phước
Luật sư đánh giá như thế nào về việc nhiều ông lớn BĐS liên tục phát hành trái phiếu?
Trước hết, chúng ra cần nhìn nhận trên phương diện quy định pháp luật, phát hành trái phiếu là một việc không đơn giản đối với cả những Tập đoàn lớn. Cụ thể, để phát hành trái phiếu, doanh nghiệp phải đáp ứng các điều kiện quy định tại Điều 9 Nghị định 153/2020/NĐ-CP, cụ thể:
“1. Đối với chào bán trái phiếu không chuyển đổi không kèm chứng quyền (không bao gồm việc chào bán trái phiếu của công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán không phải là công ty đại chúng), doanh nghiệp phải đáp ứng các điều kiện sau:
a) Là công ty cổ phần hoặc công ty trách nhiệm hữu hạn được thành lập và hoạt động theo pháp luật Việt Nam.
b) Thanh toán đủ cả gốc và lãi của trái phiếu đã phát hành hoặc thanh toán đủ các khoản nợ đến hạn trong 03 năm liên tiếp trước đợt phát hành trái phiếu (nếu có); trừ trường hợp chào bán trái phiếu cho chủ nợ là tổ chức tài chính được lựa chọn.
c) Đáp ứng các tỷ lệ an toàn tài chính, tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động theo quy định của pháp luật chuyên ngành.
d) Có phương án phát hành trái phiếu được phê duyệt và chấp thuận theo quy định tại Điều 13 Nghị định này.
đ) Có báo cáo tài chính năm trước liền kề của năm phát hành được kiểm toán bởi tổ chức kiểm toán đủ điều kiện theo quy định tại Nghị định này.
e) Đối tượng tham gia đợt chào bán theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 8 Nghị định này.
2. Đối với chào bán trái phiếu không chuyển đổi không kèm chứng quyền của công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán không phải là công ty đại chúng: doanh nghiệp phải đáp ứng các điều kiện quy định tại điểm a, điểm c, điểm d, điểm đ và điểm e khoản 1 Điều này.
3. Đối với chào bán trái phiếu chuyển đổi hoặc trái phiếu kèm chứng quyền:
a) Doanh nghiệp phát hành là công ty cổ phần.
b) Đối tượng tham gia đợt chào bán theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 8 Nghị định này.
c) Đáp ứng các điều kiện chào bán quy định tại điểm b, điểm c, điểm d và điểm đ khoản 1 Điều này.
d) Các đợt chào bán trái phiếu chuyển đổi riêng lẻ, trái phiếu kèm chứng quyền riêng lẻ phải cách nhau ít nhất 06 tháng kể từ ngày hoàn thành đợt chào bán gần nhất.
đ) Việc chuyển đổi trái phiếu thành cổ phiếu, thực hiện chứng quyền phải đáp ứng quy định về tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài theo quy định của pháp luật”
Khi đáp ứng đủ điều kiện nêu trên, doanh nghiệp phát hành trái phiếu phải đáp ứng đúng quy trình, hồ sơ theo quy định tại Điều 11, Điều 12 Nghị định 153/2020/NĐ-CP.
Đối với việc thanh toán lãi, gốc trái phiếu, Điều 17 153/2020/NĐ-CP quy định như sau:
“1. Doanh nghiệp phát hành bố trí nguồn trả nợ lãi, gốc trái phiếu từ các nguồn vốn hợp pháp của doanh nghiệp và thanh toán đầy đủ, đúng hạn cho nhà đầu tư theo các điều khoản, điều kiện của trái phiếu.
2. Đối với trái phiếu được bảo đảm bằng tài sản, khi doanh nghiệp phát hành không trả được nợ lãi, gốc trái phiếu thì tài sản bảo đảm sẽ được xử lý để thực hiện nghĩa vụ được bảo đảm của trái phiếu theo quy định của pháp luật về giao dịch bảo đảm.
3. Đối với trái phiếu được bảo lãnh thanh toán, khi doanh nghiệp phát hành không trả được nợ lãi, gốc thì tổ chức bảo lãnh thanh toán có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh thanh toán cho doanh nghiệp phát hành theo cam kết bảo lãnh giữa tổ chức bảo lãnh thanh toán và doanh nghiệp phát hành nêu tại phương án phát hành trái phiếu và đã được công bố thông tin cho nhà đầu tư.”
Theo quy định tại Điều 4, khoản 1 Nghị định 153/2020/NĐ-CP ngày 31/12/2020: “trái phiếu doanh nghiệp là loại chứng khoán có kỳ hạn từ 01 năm trở lên do doanh nghiệp phát hành, xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối với một phần nợ của doanh nghiệp phát hành”. Ngoài ra, cũng tại Điều 6, khoản 1 của Nghị định này quy định về kỳ hạn trái phiếu như sau: “Kỳ hạn trái phiếu: do doanh nghiệp phát hành quyết định đối với từng đợt chào bán căn cứ vào nhu cầu sử dụng vốn của doanh nghiệp”.
Tuy nhiên, với việc khát vốn đầu tư và trả nợ, nhiều doanh nghiệp bất động sản hiện nay phát hành và bán lượng lớn trái phiếu không tuân thủ những quy định trên. Điều này trước hết có tác động xấu lên thị trường tài chính, nhưng hậu quả có thể nặng nề cho khách hàng mua trái phiếu. Trong trường hợp công ty phá sản, khoản nợ trái phiếu được ưu tiên thanh toán nhưng trong trường hợp doanh nghiệp còn tài sản để thanh toán.
Liệu có xảy ra hiện tượng vỡ nợ như trường hợp đế chế Evergrande của Trung Quốc?
Theo tôi, thì để xảy ra hiện tượng như Evergrande tại Việt Nam là khó xảy ra, nhưng với quy mô nhỏ thì hoàn toàn có thể với tốc độ phát hành trái phiếu như thời gian vừa qua.
Nếu hậu quả xảy ra doanh nghiệp bán trái phiếu phải chịu trách nhiệm như thế nào?
Theo quy định tại Điều 17, khoản 2 Nghị định 153/2020/NĐ-CP ngày 31/12/2020 quy định tài sản đảm bảo đối với việc phát hành trái phiếu riêng lẻ như sau: “Đối với trái phiếu được bảo đảm bằng tài sản, khi doanh nghiệp phát hành không trả được nợ lãi, gốc trái phiếu thì tài sản bảo đảm sẽ được xử lý để thực hiện nghĩa vụ được bảo đảm của trái phiếu theo quy định của pháp luật về giao dịch bảo đảm”.
Việc đăng tải các thông tin thiếu chính xác, trung thực khiến cho nhà đầu tư có thể hiểu lầm có thể bị xử phạt vi phạm hành chính tại Điều 8, khoản 5, điểm b của Nghị định 156/2020/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán với mức xử phạt từ 200.000.000 - 300.000.000 VNĐ đối với hành vi: “không đảm bảo các thông tin trong hồ sơ chào bán, phát hành trái phiếu riêng lẻ chính xác, trung thực, có thể kiểm chứng được, không gây hiểu nhầm và có đầy đủ những nội dung có thể ảnh hưởng đến quyết định của nhà đầu tư”.
Thậm chí hành vi trên có thể vi phạm pháp luật hình sự. Cụ thể, việc đăng tải các thông tin thiếu chính xác, thiếu trung thực của các doanh nghiệp, nếu có căn cứ rõ ràng gây thiệt hại cho những nhà đầu tư có thể bị truy tố hình sự theo quy định tại Điều 209 BLHS 2015 Tội cố ý công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu thông tin trong hoạt động chứng khoán có thể bị phạt tù lên đến 2 năm.
Khách hàng cần làm gì để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp?
Bất kể loại hình đầu tư nào cũng đều tiềm ẩn rủi ro, Điểm b, khoản 2 Điều 8 Nghị định 153/2020/NĐ-CP cũng đã quy định về trách nhiệm của nhà đầu tư mua trái phiếu: “Tự đánh giá, tự chịu trách nhiệm về quyết định đầu tư của mình và tự chịu các rủi ro phát sinh trong việc đầu tư và giao dịch trái phiếu. Nhà nước không bảo đảm việc doanh nghiệp phát hành trái phiếu thanh toán đầy đủ, đúng hạn lãi, gốc trái phiếu khi đến hạn và các quyền khác cho nhà đầu tư mua trái phiếu”.
Nhà đầu tư cần nhận diện các rủi ro về tín dụng khi tổ chức phát hành trái phiếu không có khả năng trả lãi suất định kỳ hoặc thanh toán khoản gốc không đúng hạn. Rủi ro về thanh khoản và định giá lãi suất cũng là rủi ro cần để ý. Cùng với đó là những rủi ro mua lại, tái đầu tư, lạm phát, bất ổn kinh tế, các thương vụ mua bán sáp nhập, thảm họa hay đại dịch…
Bất kể doanh nghiệp nào khi phát hành trái phiếu đều sẽ phải công bố các thông tin liên quan việc chào bán trái phiếu như thông tin công ty, điều lệ công ty, báo cáo tài chính, tình hình tài chính của công ty… Do đó, để giảm thiểu tối đa các rủi ro, nhà đầu tư phải tự mình tìm hiểu kỹ các thông tin từ chính doanh nghiệp phát hành trái phiếu. Đồng thời nhà đầu tư cũng nên tìm hiểu kỹ các quyền và trách nhiệm của mình theo quy định của pháp luật khi tham gia giao dịch chứng khoán. Trong trường hợp nhà đầu tư không tự mình đánh giá, quyết định được, tôi khuyến cáo nhà đầu tư nên tham vấn ý kiến từ các chuyên gia, tư vấn viên có chuyên môn trong lĩnh vực tài chính, kinh doanh.
Nếu trong trường có rủi ro xảy ra liên quan đến việc chi trả khoản tiền nợ gốc, lãi, nhà đầu tư có thể khởi kiện doanh nghiệp phát hành trái phiếu ra Tòa án nhân dân có thẩm quyền, yêu cầu doanh nghiệp phát hành trái phiếu giao trả toàn bộ số tiền gốc và lãi. Hoặc trong trường hợp doanh nghiệp không có khả năng thanh toán khoản tiền gốc và lãi đã được quy định trong hợp đồng giữa nhà đầu tư và doanh nghiệp phát hành trái phiếu, nhà đầu tư có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản khi hết thời hạn 03 tháng kể từ ngày khoản nợ đến hạn mà doanh nghiệp phát hành trái phiếu không có khả năng trả nợ khoản tiền gốc và lãi.
Trong trường hợp nếu nhận thấy doanh nghiệp có dầu hiệu vi phạm pháp luật hình sự như: làm giả hồ sơ giấy tờ, lừa đảo…, nhà đầu tư cũng có quyền tố giác hành vi sai trái của doanh nghiệp phát hành trái phiếu đến cơ quan công an có thẩm quyền.