29/03/2024 lúc 11:58 (GMT+7)
Breaking News

Tiếp tục thực hiện nhiều giải pháp đồng bộ, phù hợp nhằm tăng cường tiềm lực quốc phòng, bảo vệ vững chắc Tổ quốc

Tiềm lực quốc phòng là một trong những nội dung quan trọng của tiềm lực quốc gia. Tăng cường tiềm lực quốc phòng là đòi hỏi khách quan, là chủ trương chiến lược và là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của cả hệ thống chính trị và toàn dân mà nòng cốt là lực lượng vũ trang nhằm tăng cường sức mạnh quốc phòng, bảo vệ vững chắc Tổ quốc. Tăng cường tiềm lực quốc phòng, do đó, cần được tiến hành trên tất cả lĩnh vực với những giải pháp đồng bộ, phù hợp và hiệu quả.

Tiềm lực quốc phòng là khả năng về nhân lực, vật lực, tài chính, tinh thần ở trong nước và nước ngoài, có thể được huy động để thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, là cơ sở, nền tảng quan trọng để củng cố, nâng cao sức mạnh quốc phòng, gia tăng sức mạnh tổng hợp quốc gia, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc. Tiềm lực quốc phòng bao gồm tiềm lực chính trị - tinh thần; tiềm lực kinh tế, văn hóa, xã hội; tiềm lực khoa học, công nghệ; tiềm lực quân sự. Tăng cường tiềm lực quốc phòng là yêu cầu khách quan, là nội dung quan trọng nhất nhằm nâng cao tính bền vững, khả năng huy động sức mạnh tổng hợp, đáp ứng yêu cầu quốc phòng, quân sự thời bình và thời chiến. Từ khi tiến hành công cuộc đổi mới đất nước, xuyên suốt các kỳ đại hội (nhất là từ Đại hội VI đến Đại hội XII), Đảng ta luôn kiên định chủ trương kết hợp kinh tế - xã hội với quốc phòng, an ninh, “Tăng cường tiềm lực quốc phòng và an ninh”(1). Đặc biệt, tại Đại hội XIII, Đảng ta tiếp tục xác định: “Tăng cường tiềm lực quốc phòng và an ninh; xây dựng và phát huy mạnh mẽ “thế trận lòng dân” trong nền quốc phòng toàn dân và nền an ninh nhân dân”(2), bảo vệ vững chắc Tổ quốc trong mọi tình huống. Đây là quan điểm cơ bản, chủ trương chiến lược nhất quán, xuyên suốt, thể hiện tư duy đột phá về xây dựng nền quốc phòng toàn dân của Đảng trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế, nhằm tạo ra nguồn lực tổng hợp bảo đảm tốt nhất cho nhiệm vụ quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc.

Quán triệt, thực hiện nghiêm túc chủ trương nói trên, những năm qua, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân và cả hệ thống chính trị, mà nòng cốt là Quân đội đã tổ chức thực hiện đồng bộ, có hiệu quả các chủ trương, giải pháp xây dựng tiềm lực quốc phòng, tăng cường tiềm lực, sức mạnh quốc gia, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Hệ thống chính trị các cấp từ Trung ương tới cơ sở được xây dựng vững mạnh, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động; “thế trận lòng dân” thường xuyên được củng cố, nhân dân ngày càng tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, điều hành của Nhà nước; sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc được giữ vững, tăng cường; nhận thức, ý thức, trách nhiệm của các cấp, ngành, tổ chức, lực lượng và nhân dân về vấn đề này có chuyển biến căn bản, từ đó cống hiến ngày càng nhiều sức người, sức của cho nhiệm vụ quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc.

Về xây dựng tiềm lực kinh tế, mặc dù chịu tác động tiêu cực từ đại dịch COVID-19, nhưng với sự đồng lòng, quyết tâm chính trị cao của toàn Đảng, cả hệ thống chính trị và toàn dân, nền kinh tế đất nước vẫn giữ được ổn định, phát triển bền vững theo định hướng xã hội chủ nghĩa và đạt nhiều thành tựu to lớn(3). Việc kết hợp kinh tế, văn hóa, xã hội với quốc phòng, quốc phòng với kinh tế, văn hóa, xã hội được triển khai mạnh mẽ, tạo chuyển biến tích cực, nhất là về bố trí cơ cấu kinh tế - kỹ thuật, phân bổ nguồn nhân lực, xây dựng kết cấu hạ tầng, thiết bị chiến trường, khu vực phòng thủ, phòng thủ quân khu, hậu phương chiến lược..., sẵn sàng vận hành, huy động khi có tình huống xảy ra. Văn hóa được phát triển toàn diện với những chủ trương, chiến lược, bước đi vững chắc; kết hợp chặt chẽ giữa truyền thống với hiện đại; giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa Việt Nam; khơi dậy và phát huy lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, tự tôn dân tộc. Khoa học, công nghệ được tập trung đột phá, đổi mới sáng tạo với những bước “đi tắt, đón đầu”, tạo động lực chủ yếu cho tăng trưởng kinh tế, phát triển đất nước nhanh, bền vững; trong đó, khoa học, công nghệ quân sự, công nghiệp quốc phòng, hiện đại hóa Quân đội được ưu tiên phát triển.

Tiềm lực quân sự được xây dựng với những biện pháp khoa học, thiết thực; tổ chức, biên chế của Quân đội được điều chỉnh theo hướng “tinh, gọn, mạnh”, vũ khí, trang bị ngày càng hiện đại, khu vực phòng thủ các tỉnh, thành phố được xây dựng vững chắc; kế hoạch, phương án về phòng thủ quân sự, dân sự, động viên quốc phòng được kiện toàn, bổ sung kịp thời và tổ chức luyện tập, diễn tập chặt chẽ, bảo vệ vững chắc chủ quyền lãnh thổ biên giới, vùng trời, vùng biển của Tổ quốc. Cơ chế, chính sách huy động lực lượng, phương tiện, cơ sở vật chất cho nhiệm vụ quốc phòng từng bước được hoàn thiện; nguồn dự trữ và khả năng động viên mở rộng sức người, sức của các ngành, lĩnh vực, cơ sở hậu cần, kỹ thuật,... cho nhiệm vụ quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc được duy trì thường xuyên; chất lượng tổng hợp, trình độ, khả năng sẵn sàng chiến đấu của lực lượng vũ trang, nhất là của Quân đội ngày càng được nâng cao, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

Bên cạnh kết quả đạt được, nhận thức về tiềm lực quốc phòng của một số cán bộ, đảng viên và một bộ phận nhân dân vẫn chưa đầy đủ, toàn diện; việc gắn kết giữa phát triển kinh tế với tăng cường sức mạnh quốc phòng ở một số địa bàn chiến lược, biên giới, biển, đảo chưa chặt chẽ. Cơ chế huy động lực lượng, phương tiện, cơ sở vật chất cho nhiệm vụ quân sự, quốc phòng còn nhiều bất cập,... Trong khi đó, những diễn biến nhanh chóng, khó lường và tác động của tình hình an ninh, chính trị quốc tế, khu vực, nhất là tác động của các cuộc xung đột, cùng các mối đe dọa an ninh truyền thống và phi truyền thống,... đặt ra cho nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc những yêu cầu, nhiệm vụ mới cao hơn, nặng nề hơn.

Thực tiễn trên đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân cần tiếp tục quán triệt, thực hiện nghiêm túc, hiệu quả quan điểm, chủ trương của Đảng về tăng cường tiềm lực quốc phòng, với nhiều giải pháp đồng bộ, phù hợp, nhằm gia tăng sức mạnh quốc gia, bảo vệ vững chắc Tổ quốc. Trong đó, tập trung vào một số giải pháp căn bản sau:

Một là, tăng cường và bảo đảm sự lãnh đạo trực tiếp, tuyệt đối của Đảng, hiệu lực quản lý của Nhà nước đối với xây dựng, củng cố, tăng cường tiềm lực quốc phòng.

Đây là giải pháp cơ bản, xuyên suốt, quan trọng hàng đầu, bảo đảm cho quá trình xây dựng tiềm lực quốc phòng của nền quốc phòng toàn dân đúng định hướng, chặt chẽ và đạt hiệu quả. Bởi lẽ, tiềm lực quốc phòng là bộ phận quan trọng của tiềm lực quốc gia, nhưng không phải là tổng tiềm lực của các lĩnh vực, mà là tổng hòa các phần tiềm lực ở mỗi lĩnh vực có thể huy động để sử dụng cho nhiệm vụ quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc. Do đó, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý của Nhà nước đối với từng ngành, lĩnh vực và toàn cục là vấn đề quan trọng hàng đầu, quyết định đến chất lượng, hiệu quả tăng cường tiềm lực quốc phòng. Để làm được điều đó, các cấp, ngành, lĩnh vực từ Trung ương đến địa phương cần tiếp tục quán triệt, triển khai thực hiện hiệu quả các nghị quyết, chỉ thị của Đảng về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc; các kế hoạch, phương án động viên quốc phòng, sẵn sàng động viên khi có chiến tranh. Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng cần chủ động tham mưu với Đảng, Nhà nước ban hành chủ trương, chính sách tăng cường cơ chế lãnh đạo, chỉ đạo đối với sự nghiệp quốc phòng, đặc biệt là nhiệm vụ xây dựng tiềm lực quốc phòng của nền quốc phòng toàn dân. Phối hợp với các ban, ngành ở Trung ương, cấp ủy, chính quyền địa phương ban hành, triển khai thực hiện các nghị quyết, chương trình, kế hoạch, đề án, đề tài về xây dựng, tăng cường tiềm lực quốc phòng với các mục tiêu, chỉ tiêu, yêu cầu, nội dung, nhiệm vụ,... cụ thể, phù hợp với khả năng, nguồn lực địa phương, yêu cầu bảo vệ địa bàn, khu vực phòng thủ, phương hướng xây dựng tiềm lực quốc gia; trong đó, chú trọng đến các địa bàn chiến lược, trọng điểm.

Các cấp, ngành, lĩnh vực, địa phương cần tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo việc quán triệt, giáo dục để cán bộ, đảng viên và nhân dân nhận thức rõ xây dựng tiềm lực quốc phòng nói riêng, nền quốc phòng toàn dân nói chung là nhiệm vụ chính trị trọng yếu, thường xuyên, là cơ sở, nền tảng chuyển hóa thành thực lực để xử lý kịp thời, thắng lợi các tình huống quân sự, quốc phòng trong thời bình và khi có chiến tranh; từ đó, đề cao trách nhiệm chính trị trong quá trình tổ chức thực hiện. Kiên quyết đấu tranh loại bỏ tư tưởng cho rằng “đây là nhiệm vụ của riêng lực lượng vũ trang, của Quân đội”, nhất là nhận thức: “trong thời bình không cần chuẩn bị, củng cố quốc phòng,... gây tốn kém, ảnh hưởng đến kết quả phát triển kinh tế đất nước”.

Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát, gắn trách nhiệm, kết quả hoàn thành nhiệm vụ của cấp ủy, người đứng đầu các cấp, ngành, địa phương, lực lượng vũ trang với kết quả xây dựng tiềm lực quốc phòng. Tổ chức sơ kết, tổng kết riêng hoặc gắn với tổng kết công tác quân sự, quốc phòng, xây dựng khu vực phòng thủ, phòng thủ dân sự, hậu phương chiến lược, xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thực hiện chiến lược bảo vệ Tổ quốc hằng năm, từng giai đoạn. Trong việc sơ kết, tổng kết, phải đánh giá trung thực, chính xác, chỉ rõ thành tựu, hạn chế, nguyên nhân khách quan, chủ quan, rút ra bài học kinh nghiệm để tiếp tục nâng cao chất lượng, hiệu quả xây dựng tiềm lực quốc phòng ở giai đoạn tiếp theo; đồng thời, làm cơ sở động viên, khen thưởng kịp thời đối với các địa phương, tổ chức hoàn thành tốt nhiệm vụ quan trọng này.

Tăng cường tiềm lực quốc phòng là nhiệm vụ hệ trọng của quốc gia, luôn đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý tập trung, thống nhất của Nhà nước từ Trung ương tới địa phương theo quy định của Hiến pháp và pháp luật. Vì vậy, để tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước đối với nội dung này, các cấp, ngành, lực lượng, mà trực tiếp là Quân đội cần tiếp tục tham mưu với Nhà nước hoàn thiện thể chế quốc phòng; chú trọng cụ thể hóa và nâng cao hiệu quả thực hiện hệ thống luật liên quan đến quốc phòng(4), các chỉ thị, thông tư, hướng dẫn về xây dựng tiềm lực quốc phòng. Xây dựng và tổ chức thực hiện các chính sách về quốc phòng, xây dựng tiềm lực quốc phòng của nền quốc phòng toàn dân, kế hoạch phòng thủ đất nước, kế hoạch động viên quốc phòng và bảo đảm cho hoạt động quốc phòng; chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ đối ngoại, hợp tác quốc tế về quốc phòng và các biện pháp xây dựng, huy động tiềm lực quốc phòng cho thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Kết hợp chặt chẽ giữa kiện toàn, nâng cao hiệu quả hoạt động của Hội đồng Quốc phòng và an ninh, hội đồng cung cấp, ban chỉ đạo khu vực phòng thủ các cấp với phát huy vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu các cơ quan, đơn vị, địa phương. Điều chỉnh, bổ sung, triển khai kịp thời, có hiệu quả các cơ chế, quy chế quản lý, điều hành, phối hợp, kiểm tra, giám sát của các cấp, ngành, lĩnh vực, địa phương. Tổ chức quán triệt, thực hiện nghiêm túc, chặt chẽ, hiệu quả các chủ trương, nhiệm vụ, giải pháp xây dựng tiềm lực quốc phòng trong từng ngành, lĩnh vực, địa phương và địa bàn cả nước.

Hai là, phát huy sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị, các tổ chức, lực lượng và toàn dân, nòng cốt là Quân đội nhân dân nhằm tăng cường tiềm lực quốc phòng.

Tăng cường tiềm lực quốc phòng là chủ trương chiến lược của Đảng và Nhà nước ta, nhằm huy động mọi nguồn lực, cả nội lực và ngoại lực cho nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Vấn đề này liên quan trực tiếp đến cách thức, biện pháp chuẩn bị đất nước toàn diện về nhân lực, vật lực, trí lực, tài lực, tinh thần và huy động các nguồn lực ở nước ngoài, tạo thành sức mạnh tổng thể quốc gia, sẵn sàng động viên cho quốc phòng khi cần thiết. Vì vậy, cần phát huy vai trò, trách nhiệm, sự vào cuộc đồng bộ, quyết liệt của hệ thống chính trị, các tổ chức, lực lượng và toàn dân, nòng cốt là Quân đội theo tinh thần: “Củng cố quốc phòng,... bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của Đảng, Nhà nước, hệ thống chính trị và toàn dân, trong đó Quân đội nhân dân... là nòng cốt”(5). Theo đó, cấp ủy, chính quyền, người đứng đầu các cấp, ngành, lĩnh vực, địa phương cần nhận thức sâu sắc, coi đây là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, cần tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện bằng những chủ trương, giải pháp khoa học, phù hợp với đặc điểm, chức năng, nhiệm vụ, khả năng của ngành, lĩnh vực, địa phương mà mình phụ trách. Tập trung xây dựng, phát triển toàn diện các lĩnh vực của đời sống xã hội; chú trọng đầu tư phát triển một số lĩnh vực trực tiếp liên quan đến xây dựng tiềm lực quốc phòng, như chính trị - tinh thần, “thế trận lòng dân”, kinh tế, văn hóa, xã hội, khoa học, công nghệ, quân sự,... Phát huy vai trò, trách nhiệm của các cơ quan, ban, ngành, tổ chức chính trị - xã hội ở địa phương và đội ngũ cán bộ, đảng viên trong thực hiện chủ trương, cơ chế, biện pháp xây dựng, huy động nguồn lực các lĩnh vực cho thực hiện nhiệm vụ quốc phòng. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc các cấp. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động nhân dân tự giác tham gia hoạt động quân sự, quốc phòng và cống hiến sức người, sức của, tăng cường tiềm lực, sức mạnh quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc.

Cùng với đó, cần phát huy vai trò nòng cốt của Quân đội trong xây dựng tiềm lực quốc phòng. Trước yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, Quân đội cần tiếp tục quán triệt sâu sắc chủ trương tăng cường tiềm lực quốc phòng của nền quốc phòng toàn dân, tham mưu với Đảng, Nhà nước các chủ trương, giải pháp xây dựng, huy động nguồn lực và chuyển hóa tiềm lực thành thực lực để xử lý kịp thời, có hiệu quả các tình huống quốc phòng, không để bị động, bất ngờ cả về chiến lược, chiến dịch và chiến thuật. Các cơ quan, đơn vị trong toàn quân, đặc biệt là cơ quan quân sự địa phương các cấp cần phát huy vai trò nòng cốt, tham mưu với cấp ủy, chính quyền cùng cấp các biện pháp xây dựng khu vực phòng thủ, kết hợp kinh tế với quốc phòng; phối hợp thực hiện các kế hoạch, chỉ tiêu động viên lực lượng, phương tiện, cơ sở vật chất các ngành (công nghiệp, nông nghiệp, khoa học kỹ thuật, giao thông vận tải, dịch vụ và các ngành khác); các biện pháp kết hợp xây dựng tiềm lực với lực lượng, thế trận trong tổng thể xây dựng nền quốc phòng toàn dân, bảo vệ vững chắc địa bàn. Đẩy mạnh phát triển công nghiệp quốc phòng theo hướng hiện đại, lưỡng dụng, đáp ứng một phần nhu cầu vũ khí, trang bị kỹ thuật cho lực lượng vũ trang, tăng cường tiềm lực quốc phòng và trở thành mũi nhọn của nền công nghiệp quốc gia, đóng góp tích cực vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đồng thời, toàn quân tập trung quán triệt và vận dụng sáng tạo, có hiệu quả các nghị quyết mới của Quân ủy Trung ương(6) vào quá trình phát huy vai trò nòng cốt trong xây dựng, huy động, chuyển hóa tiềm lực quốc phòng.

Ba là, kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường quốc phòng, an ninh, tạo nền tảng vững chắc để xây dựng tiềm lực quốc phòng.

Thực tiễn cho thấy, kinh tế - xã hội phát triển sẽ tạo ra nguồn lực vật chất, tài chính quan trọng để tăng cường tiềm lực quốc phòng; ngược lại, tiềm lực quốc phòng mạnh sẽ gia tăng sức mạnh quốc gia, ngăn chặn, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh và sẵn sàng đánh thắng kẻ thù nếu xảy ra chiến tranh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc, kiến tạo môi trường hòa bình, ổn định để phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, không phải cứ kinh tế phát triển là có tiềm lực quốc phòng mạnh, mà nó cần được chuyển hóa trong từng ngành, lĩnh vực theo kế hoạch và mục tiêu đã xác định một cách phù hợp. Vì vậy, các cấp, ngành, địa phương, lực lượng vũ trang cần “Cụ thể hóa và thực hiện có hiệu quả quan hệ giữa hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, chiến lược bảo vệ Tổ quốc; trong các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại; trong từng địa phương, vùng, địa bàn chiến lược và trong từng nhiệm vụ, chương trình, kế hoạch cụ thể”(7). Trong đó, cần chú trọng gắn thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội với thực hiện các chiến lược quốc phòng, quân sự, bảo vệ biên giới quốc gia, bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng,... Trong quá trình thực hiện, cần coi trọng phát triển các ngành kinh tế biển gắn với bảo vệ chủ quyền lãnh thổ; các ngành công nghiệp cơ bản, lưỡng dụng, công nghệ mũi nhọn..., tạo nền tảng sẵn sàng chuyển hóa để bảo đảm nhu cầu trang bị ngày càng hiện đại của lực lượng vũ trang. Tập trung nghiên cứu nội dung, phương thức nâng cao hiệu quả kết hợp kinh tế với quốc phòng, bảo đảm yêu cầu cân đối, hài hòa, hỗ trợ nhau cùng phát triển. Xây dựng cơ chế, quy chế phối hợp liên thông, đồng bộ, nhịp nhàng, ăn khớp giữa các ban, ngành ở Trung ương với địa phương, giữa các vùng kinh tế trọng điểm với các khu vực phòng thủ, khu kinh tế - quốc phòng, phù hợp với đặc điểm, yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ địa bàn, tiềm năng, thế mạnh của địa phương và quy hoạch, kế hoạch, đề án phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng (ngắn hạn, trung hạn, dài hạn) trên từng vùng, miền và cả nước.

Tiếp tục quán triệt, triển khai thực hiện các nghị quyết của Bộ Chính trị về phát triển “vùng kinh tế - xã hội”(8), nâng cao hiệu quả hoạt động các khu kinh tế - quốc phòng trên phạm vi cả nước, tập trung vào địa bàn chiến lược, vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, biển, đảo, vùng đặc biệt khó khăn. Chú trọng kết hợp triển khai có hiệu quả các đề án đang thực hiện với nghiên cứu mở rộng các đề án xây dựng chuỗi đảo gần bờ thành các trung tâm kinh tế, khoa học, công nghệ, quốc phòng theo mô hình đa năng, tự chủ một phần về kinh tế, phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng. Huy động nguồn lực, sức mạnh của các doanh nghiệp, đơn vị quân đội được giao nhiệm vụ tham gia phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội vào xây dựng tiềm lực quốc phòng; tuyệt đối không vì mục đích kinh tế đơn thuần mà bỏ qua mục đích quốc phòng, góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Kết hợp chặt chẽ các cơ sở công nghiệp quốc phòng với các cơ sở công nghiệp dân sinh phục vụ phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng. Các hoạt động sản xuất, kinh doanh, đầu tư và nghiên cứu ứng dụng khoa học, công nghệ phải tuân thủ yêu cầu kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với bảo đảm quốc phòng, sẵn sàng huy động, động viên để sản xuất bảo đảm nhu cầu quốc phòng khi cần thiết.

Bốn là, đẩy mạnh hội nhập, hợp tác quốc tế, trực tiếp là hợp tác và đối ngoại quốc phòng, thu hút các nguồn lực bên ngoài vào tăng cường tiềm lực quốc phòng.

Tăng cường tiềm lực quốc phòng là vấn đề lớn, mang tầm chiến lược, bao gồm nhiều thành tố khác nhau, trên nhiều lĩnh vực và không chỉ diễn ra trong “một sớm, một chiều”, trong khi nguồn lực của đất nước còn hạn hẹp. Vì vậy, để việc tăng cường tiềm lực quốc phòng đạt hiệu quả, phải gắn phát huy nội lực với tranh thủ ngoại lực, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại thông qua đẩy mạnh hội nhập, hợp tác quốc tế, trực tiếp là hợp tác và đối ngoại quốc phòng. Để làm được điều đó, cần vận dụng đúng đắn, linh hoạt, sáng tạo quan điểm, phương châm chỉ đạo của Đảng về đối ngoại quốc phòng phù hợp với tình hình mới. Trước hết, tiếp tục quán triệt, triển khai thực hiện có hiệu quả công tác đối ngoại quốc phòng theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ Quân đội lần thứ XI và các nghị quyết, chỉ thị, chương trình, kế hoạch, đề án về hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng(9), bảo đảm đối ngoại quốc phòng là một trọng tâm của ba trụ cột ngoại giao (đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước, đối ngoại nhân dân).

Để đưa nghị quyết của Đảng và Quân ủy Trung ương đi vào cuộc sống, cùng với chăm lo kiện toàn hệ thống cơ quan và đội ngũ cán bộ đối ngoại quốc phòng chuyên trách các cấp, cần tập trung đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động đối ngoại quốc phòng, bảo đảm triển khai toàn diện, có trọng điểm, có kế hoạch, chiều sâu; nắm chắc tình hình thế giới, khu vực, kịp thời tham mưu, đề xuất với Đảng, Nhà nước xử lý tốt các mối quan hệ hợp tác quốc phòng với các nước. Tích cực, chủ động đưa quan hệ hợp tác quốc phòng song phương đi vào chiều sâu, thực chất, hiệu quả, ổn định; ưu tiên quan hệ hợp tác với các nước láng giềng, các nước lớn, đối tác chiến lược, các nước thuộc Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), các nước bạn bè truyền thống, các lĩnh vực ta có nhu cầu, phù hợp với khả năng của đất nước, Quân đội; coi trọng giao lưu hữu nghị quốc phòng biên giới với Trung Quốc, Lào, Cam-pu-chia. Kết hợp giữa rà soát, triển khai có hiệu quả các văn bản, thỏa thuận đã ký kết và ký kết mới các văn bản hợp tác với các nước, các đối tác; giải quyết hiệu quả các mối quan hệ hợp tác, tạo thế cân bằng, đan xen lợi ích chiến lược với các nước lớn; tích cực tham gia các cơ chế hợp tác quốc phòng đa phương trong khuôn khổ ASEAN, hoạt động hỗ trợ nhân đạo và gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc; tăng cường lòng tin chiến lược, nâng cao uy tín, vị thế của Quân đội và đất nước trên trường quốc tế.

Thông qua hợp tác quốc tế, đối ngoại quốc phòng, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế đối với các lợi ích hợp pháp của Việt Nam. Đồng thời, huy động các nguồn lực từ bên ngoài vào đẩy nhanh tiến trình hiện đại hóa Quân đội, tăng cường tiềm lực quốc phòng, gia tăng sức mạnh tổng thể quốc gia, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa./.

NGUYỄN TÂN CƯƠNG
Thượng tướng, Ủy viên Trung ương Đảng,
Ủy viên Thường vụ Quân ủy Trung ương,
Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam,
Thứ trưởng Bộ Quốc phòng

----------------------------------

(1) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr. 148
(2) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 157
(3) Theo Tổng cục Thống kê, tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2022 ước tính tăng 8,02%, cao nhất giai đoạn 2011 - 2022
(4) Như Luật Quốc phòng, Luật Nghĩa vụ quân sự, Luật Dân quân tự vệ, Luật Lực lượng dự bị động viên, Luật Cảnh sát biển Việt Nam, Luật Biên phòng Việt Nam,...
(5) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 156
(6) Như Nghị quyết số 1652-NQ/QUTW, ngày 20-12-2022, “Về lãnh đạo công tác khoa học quân sự đến năm 2030 và những năm tiếp theo”; Nghị quyết số 1656-NQ/QUTW, ngày 20-12-2022, “Về lãnh đạo công tác kỹ thuật đến năm 2030 và những năm tiếp theo”; Nghị quyết số 1657-NQ/QUTW, ngày 20-12-2022, “Về công tác hậu cần quân đội”,...
(7) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 157
(8) Hiện nay, 6 vùng kinh tế - xã hội bao gồm vùng trung du và miền núi phía Bắc, vùng đồng bằng sông Hồng, vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung, vùng Tây Nguyên, vùng Đông Nam Bộ và vùng đồng bằng sông Cửu Long
(9) Như Nghị quyết số 806-NQ/QUTW, ngày 31-12-2013, của Quân ủy Trung ương, “Về hội nhập quốc tế và đối ngoại về quốc phòng đến năm 2020 và những năm tiếp theo”; Nghị định số 22/2016/NĐ-CP, ngày 31-3-2016, của Chính phủ, “Về đối ngoại quốc phòng”; Nghị quyết số 130/2020/QH14, ngày 13-11-2020, của Quốc hội, “Về tham gia lực lượng gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc”;...