Tóm tắt: Đề tài tập trung nghiên cứu các hình thức sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, phân tích thực trạng các hình thức sở hữu hiện nay, những thành tựu và hạn chế. Đề tài cũng đề xuất giải pháp đổi mới và hoàn thiện các hình thức sở hữu nhằm tăng cường hiệu quả quản lý, phát triển kinh tế, bảo đảm công bằng xã hội và giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa.
Từ khóa: Hình thức sở hữu; Đổi mới và hoàn thiện; Nền kinh tế thị trường; Định hướng xã hội chủ nghĩa.

Ảnh minh họa - TL
I. Đặt vấn đề
Thứ nhất, từ yêu cầu từ thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội
Các hình thức và quan hệ sở hữu là yếu tố trung tâm trong hệ thống các quan hệ sản xuất, quyết định cách thức phân phối và sử dụng các nguồn lực. Việc hoàn thiện quan hệ sở hữu sẽ tạo nền tảng cho sự phát triển bền vững, tăng trưởng kinh tế, và giảm bất bình đẳng xã hội. Quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đặt ra nhiều thách thức trong việc quản lý và vận hành các loại hình sở hữu. Điều này đặc biệt quan trọng trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng và cạnh tranh kinh tế toàn cầu ngày càng gia tăng.
Thứ hai, từ sự tác động của cách mạng công nghiệp 4.0 và chuyển đổi số
Công nghệ số hóa đang dẫn đến sự hình thành các loại hình sở hữu mới, như sở hữu trí tuệ, dữ liệu số, và tài sản kỹ thuật số. Việc điều chỉnh khung pháp lý và cơ chế quản lý để thích ứng với những biến đổi này là cấp thiết. Chuyển đổi số tạo điều kiện cho việc quản lý và giám sát các loại hình sở hữu, góp phần giảm thất thoát, lãng phí, và tham nhũng.
Thứ ba, từ yêu cầu đối với phát triển bền vững
Hoàn thiện các hình thức và quan hệ sở hữu là điều kiện tiên quyết để phân bổ nguồn lực một cách công bằng, tạo động lực cho sản xuất và bảo vệ môi trường, đảm bảo sự phát triển bền vững. Một hệ thống các hình thức và quan hệ sở hữu minh bạch và hiệu quả sẽ đóng góp vào việc giảm chênh lệch giàu nghèo và tạo sự đồng thuận trong xã hội.
Thứ tư, từ yêu cầu thực tiễn trong giảng dạy CNXHKH cho sinh viên
Giảng dạy chủ nghĩa xã hội khoa học trong đào tạo sinh viên cần hướng đến trang bị tư duy lý luận biện chứng và năng lực giải quyết các vấn đề thực tiễn. Việc phân tích và giải thích khúc triết vấn đề đổi mới các hình thức và quan hệ sở hữukhông chỉ củng cố niềm tin của sinh viên vào chủ nghĩa xã hội mà còn giúp họ hiểu rõ con đường phát triển của Việt Nam trong bối cảnh kinh tế thị trường hiện nay. Việc giảng dạy chủ nghĩa xã hội khoa học phải phản ánh được sự vận dụng sáng tạo của Đảng và Nhà nước vào việc đổi mới và hoàn thiện quan hệ sở hữu, bảo đảm hài hòa giữa các loại hình sở hữu, nhưng vẫn giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa. Thông qua việc giảng dạy, sinh viên hiểu rõ sự tiến bộ, ưu việt của hình thái kinh tế cũng như chế độ xã hội chủ nghĩa mà Việt Nam đang xây dựng , từ đó củng cố niềm tin vào định hướng xã hội chủ nghĩa, góp phần bảo vệ bản chất khoa học của chủ nghĩa Mác – Lênin.
II. Nội dung
1. Cơ sở lý luận về hình thức và quan hệ sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
1.1. Định nghĩa quan hệ sở hữu và các loại hình sở hữu trong nền kinh tế thị trường (sở hữu công, tư, hỗn hợp)
C. Mác nghiên cứu vấn đề sở hữu gắn với việc nghiên cứu các hình thái kinh tế - xã hội và phát hiện ra quy luật cơ bản của sự phát triển xã hội loài người là quan hệ sản xuất (QHSX) phải phù hợp với một trình độ phát triển nhất định của lực lượng sản xuất (LLSX). Sở hữu là quan hệ giữa con người với con người trong quá trình sản xuất xã hội thông qua việc chiếm hữu TLSX và sản phẩm lao động (của cải vật chất xã hội) trong điều kiện một hình thái kinh tế - xã hội nhất định, trong điều kiện cụ thể của quá trình sản xuất vật chất.
Trong các tác phẩm Hệ tư tưởng Đức, Bản thảo kinh tế triết học năm 1844, Tư bản... C.Mác và Ph.Ăngghen coi sở hữu là một phạm trù lịch sử, một quan hệ xã hội - quan hệ giữa người với người trong đời sống xã hội. C.Mác cho rằng, sở hữu là một quan hệ xã hội có tính lịch sử, “một quan hệ không đơn giản và cũng là một khái niệm hoặc một nguyên lý không trừu tượng chút nào, mà là tổng hòa các quan hệ sản xuất” (1). Quan hệ sở hữu không chỉ là quyền chiếm hữu, sử dụng, và định đoạt tư liệu sản xuất, mà còn liên quan đến sự phân phối thu nhập và quyền lợi giữa các giai tầng trong xã hội. Các quan hệ sở hữu là nền tảng để xác định cách tổ chức và phân phối các nguồn lực trong xã hội.
Kế thừa và phát triển lý luận của C. Mác và Ph. Ăngghen trong điều kiện chủ nghĩa tư bản (CNTB) chuyển sang giai đoạn độc quyền và đặc biệt là trong điều kiện trực tiếp lãnh đạo xây dựng CNXH ở nước Nga, V.I. Lênin đã đưa ra hàng loạt luận điểm quan trọng về sở hữu. V.I. Lênin cho rằng, CNXH không hề xóa bỏ tất cả các quyền sở hữu của quần chúng nhân dân lao động, mà chỉ muốn xóa bỏ quyền sở hữu của bọn địa chủ và tư bản. Ông chỉ rõ đặc điểm kinh tế nổi bật nhất của thời kỳ quá độ lên CNXH là sự tồn tại nền kinh tế với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế. V.I. Lênin nhấn mạnh: Nền kinh tế trong thời kỳ quá độ là nền kinh tế quá độ, không còn là nền kinh tế TBCN, nhưng cũng chưa hoàn toàn là nền kinh tế XHCN.
Các loại hình sở hữu chính trong nền kinh tế thị trường theo quan điểm Mác – Lênin: Trong tác phẩm “Những nguyên lý của chủ nghĩa cộng sản”, khi trả lời câu hỏi: “Liệu có thể thủ tiêu chế độ tư hữu ngay lập tức được không?”, Ph. Ăngghen đã trả lời: “Không, không thể được, cũng y như không thể làm cho lực lượng sản xuất hiện có tăng lên ngay lập tức đến mức cần thiết để xây dựng một nền kinh tế công hữu... và chỉ khi nào đã tạo nên được một khối lượng tư liệu sản xuất cần thiết cho việc cải tạo đó thì khi ấy mới thủ tiêu được chế độ tư hữu”(7)
Sở hữu tư nhân (tư hữu): Là hình thức sở hữu trong đó tư liệu sản xuất và sản phẩm lao động thuộc về cá nhân hoặc tổ chức tư nhân. Trong nền kinh tế thị trường, sở hữu tư nhân được khuyến khích nhằm thúc đẩy sự cạnh tranh và hiệu quả sản xuất. Tuy nhiên, chủ nghĩa Mác - Lênin phê phán việc sở hữu tư nhân đối với tư liệu sản xuất, vì nó dẫn đến phân hóa giàu nghèo và khai thác lao động.
Sở hữu công hữu (sở hữu xã hội chủ nghĩa): Đây là hình thức sở hữu trong đó tư liệu sản xuất thuộc về toàn dân hoặc thuộc về tập thể. Theo Mác - Lênin, sở hữu công cộng là cơ sở để đảm bảo sự bình đẳng và công bằng trong phân phối sản phẩm, phù hợp với mục tiêu xây dựng xã hội không có bóc lột. Có hai loại hình sở hữu công cộng:
+ Sở hữu nhà nước: Tư liệu sản xuất thuộc về nhà nước, đại diện cho toàn xã hội.
+ Sở hữu tập thể: Tư liệu sản xuất thuộc về các cộng đồng, hợp tác xã, hoặc nhóm người lao động cùng tham gia sản xuất.
Sở hữu hỗn hợp: Đây là hình thức sở hữu mà trong đó các thành phần sở hữu (tư nhân và công cộng) cùng tồn tại và đan xen. Sở hữu hỗn hợp có thể bao gồm liên kết giữa sở hữu nhà nước và sở hữu tư nhân, hoặc giữa sở hữu tập thể và sở hữu tư nhân, nhằm tận dụng tối đa nguồn lực từ cả nhà nước và cá nhân.
1.2. Vai trò và ý nghĩa của các hình thức và quan hệ sở hữu trong sự phát triển kinh tế - xã hội.
Hình thức và quan hệ sở hữu đóng vai trò nền tảng trong sự phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt là trong việc định hình các quan hệ sản xuất và phân phối tài nguyên, của cải. Từ góc nhìn của chủ nghĩa Mác - Lênin, quan hệ sở hữu không chỉ là vấn đề pháp lý mà còn là yếu tố quyết định phương thức sản xuất, mối quan hệ giữa các tầng lớp trong xã hội và sự phát triển bền vững.
Hình thức và quan hệ sở hữu quyết định ai là chủ sở hữu các tư liệu sản xuất và ai có quyền sử dụng chúng. Điều này xác định hình thức quản lý, phương thức sản xuất và quyền lợi của người lao động. Sự phân định rõ ràng các loại hình sở hữu, như sở hữu công hữu, sở hữu tư nhân, và sở hữu hỗn hợp, sẽ tạo điều kiện để tối ưu hóa hiệu quả sản xuất. Quan hệ sở hữu có tác động trực tiếp đến động lực phát triển kinh tế. Sở hữu tư nhân khuyến khích cá nhân và doanh nghiệp cải tiến, sáng tạo, từ đó nâng cao năng suất lao động và hiệu quả sản xuất. Sở hữu nhà nước và tập thể đảm bảo nguồn lực tập trung cho các ngành chiến lược, không vì lợi nhuận mà vì lợi ích xã hội. Quan hệ sở hữu công cộng, đặc biệt là sở hữu nhà nước, đóng vai trò trong việc điều tiết, phân phối lại thu nhập để thu hẹp khoảng cách giàu nghèo, từ đó giảm bớt mâu thuẫn xã hội. Đồng thời, quan hệ sở hữu hỗn hợp tạo sự cân bằng giữa phát triển cá nhân và trách nhiệm xã hội. Tóm lại, quan hệ sở hữu là yếu tố cốt lõi và có ý nghĩa chiến lược trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ, và tiến bộ.
1.3. Các nguyên tắc cơ bản của định hướng xã hội chủ nghĩa trong hình thức và quan hệ sở hữu.
Trong định hướng xã hội chủ nghĩa, các hình thức và quan hệ sở hữu đóng vai trò trung tâm nhằm xây dựng một xã hội bình đẳng, không có bóc lột, và hướng tới công bằng xã hội. Các nguyên tắc cơ bản của định hướng này trong quan hệ sở hữu bao gồm:
Nguyên tắc sở hữu công cộng giữ vai trò chủ đạo: Trong nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, sở hữu công cộng (như sở hữu nhà nước và sở hữu tập thể) đóng vai trò nền tảng nhằm đảm bảo rằng các nguồn lực chính yếu được sử dụng để phục vụ lợi ích của toàn xã hội, không phải vì lợi ích cá nhân hay nhóm riêng lẻ. Sở hữu nhà nước là hình thức sở hữu cao nhất, nơi nhà nước đại diện cho toàn dân sở hữu và quản lý các ngành, lĩnh vực có tính chiến lược như năng lượng, giao thông, và quốc phòng. Sở hữu tập thể bao gồm các hình thức hợp tác xã và tổ chức cộng đồng, giúp các nhóm dân cư cùng chia sẻ và hưởng lợi từ quá trình sản xuất.
Sở hữu tư nhân trong khuôn khổ quản lý: quá trình xóa bỏ quan hệ sở hữu tư nhân TBCN không phải là quá trình phủ định sạch trơn mọi quan hệ sở hữu, mà là quá trình xóa bỏ sự đối lập gay gắt giữa hai cực “tư bản” và “lao động làm thuê”
Về các hình thức sở hữu tư nhân, những người cộng sản phải có thái độ đúng mực, nhất là đối với sở hữu của những người tiểu nông... Trong tác phẩm “Những nguyên lý của chủ nghĩa cộng sản”, khi trả lời câu hỏi: “Liệu có thể thủ tiêu chế độ tư hữu ngay lập tức được không?”, Ph. Ăngghen đã trả lời: “Không, không thể được, cũng y như không thể làm cho lực lượng sản xuất hiện có tăng lên ngay lập tức đến mức cần thiết để xây dựng một nền kinh tế công hữu... và chỉ khi nào đã tạo nên được một khối lượng tư liệu sản xuất cần thiết cho việc cải tạo đó thì khi ấy mới thủ tiêu được chế độ tư hữu”(2)
Sở hữu tư nhân trong một nền kinh tế thị trường cũng có thể đóng góp vào công bằng xã hội nếu được quản lý và điều tiết hợp lý. Khi có sự cân đối giữa sở hữu tư nhân và công cộng, các cá nhân có động lực phát triển kinh tế cá nhân, đồng thời đảm bảo rằng sự gia tăng của cải không dẫn đến phân tầng xã hội quá lớn.
Nguyên tắc kết hợp hài hòa giữa sở hữu công và sở hữu tư nhân: Trong “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” (năm 1848), C. Mác và Ph. Ăngghen đã đưa ra khẩu hiệu chiến đấu và là mục đích cao cả của giai cấp vô sản: “Những người cộng sản có thể tóm tắt lý luận của mình thành một luận điểm duy nhất này là: xóa bỏ chế độ tư hữu”(3). Cần thấy rằng, trong quan điểm của các nhà kinh điển mác-xít, mục tiêu đấu tranh của giai cấp vô sản không phải là nhằm xóa bỏ chế độ tư hữu nói chung, mà chỉ là xóa bỏ chế độ tư hữu tư sản - một chế độ mà từ đó đẻ ra nạn người bóc lột người, một chế độ “dùng sự chiếm hữu đó để nô dịch lao động của người khác”; “Đặc trưng của chủ nghĩa cộng sản không phải là xóa bỏ chế độ sở hữu nói chung, mà là xóa bỏ chế độ sở hữu tư sản”((4)). Dù sở hữu công cộng là chủ đạo, nhưng trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, việc kết hợp với sở hữu tư nhân cũng đóng vai trò quan trọng nhằm phát huy tối đa nguồn lực xã hội. Nguyên tắc này cho phép một số lĩnh vực được phát triển theo hình thức sở hữu tư nhân, miễn là các hoạt động này không gây mâu thuẫn với mục tiêu xã hội chủ nghĩa.
Nguyên tắc công bằng và hiệu quả trong phân phối sở hữu: Định hướng xã hội chủ nghĩa đặt mục tiêu xây dựng một xã hội công bằng, nơi mọi người đều có quyền tiếp cận nguồn lực và hưởng thụ thành quả phát triển. Nguyên tắc này đòi hỏi quá trình phân phối tài nguyên và lợi nhuận phải đảm bảo lợi ích chung, đồng thời khuyến khích những đóng góp sáng tạo, tích cực của từng cá nhân và tổ chức.
Nguyên tắc quản lý và điều tiết của nhà nước: Trong định hướng xã hội chủ nghĩa, nhà nước không chỉ đóng vai trò sở hữu mà còn phải quản lý và điều tiết nền kinh tế, đặc biệt là trong các lĩnh vực quan trọng. Thông qua các chính sách và công cụ kinh tế, nhà nước đảm bảo rằng các hình thức sở hữu phục vụ lợi ích chung, tránh sự lạm dụng hoặc khai thác quá mức sở hữu tư nhân.
Nguyên tắc phát triển bền vững và vì lợi ích cộng đồng: Định hướng xã hội chủ nghĩa nhấn mạnh việc phát triển bền vững, bảo vệ tài nguyên và môi trường, và đáp ứng nhu cầu của cả hiện tại lẫn tương lai. Nguyên tắc này đảm bảo rằng các loại hình sở hữu, đặc biệt là sở hữu công cộng, được quản lý hiệu quả, hướng tới mục tiêu lợi ích cộng đồng và phát triển xã hội bền vững.
Tóm lại, các nguyên tắc này nhằm đảm bảo rằng quan hệ sở hữu trong nền kinh tế xã hội chủ nghĩa không chỉ là hình thức pháp lý mà còn là công cụ để thực hiện mục tiêu công bằng xã hội, bảo vệ lợi ích chung và phát triển bền vững.
1.4. Quan điểm của Đảng tiếp tục đổi mới và hoàn thiện các hình thức và quan hệ sở hữu
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) xác đinh: “ Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp”(6), đưa ra phương hướng cơ bản và định hướng lớn về phát triển kinh tế “phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”(7) “với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, hình thức tổ chức kinh doanh và hình thức phân phối”(8), đồng thời xác nhận xu hướng “Các hình thức sở hữu hỗn hợp và đan kết với nhau hình thành các tổ chức kinh tế đa dạng ngày càng phát triển”(9)
Đại hội XI đã xác định bổ sung nhận thức khái niệm nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, xác định lại cơ cấu thành phần kinh tế và khẳng định vai trò động lực của kinh tế tư nhân. Để phát triển các hình thức sở hữu, các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp, Đảng đã đề ra nhiệm vụ: “Tiếp tục thể chế hoá quan điểm của Đảng về phát triển đa dạng các hình thức sở hữu, các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp; bảo hộ các quyền và lợi ích hợp pháp của chủ sở hữu tài sản thuộc các hình thức sở hữu, các loại hình doanh nghiệp trong nền kinh tế; xây dựng, hoàn thiện luật pháp về sở hữu đối với các loại tài sản mới như sở hữu trí tuệ, cổ phiếu, trái phiếu, tài nguyên nước..., quy định rõ quyền, trách nhiệm của các chủ sở hữu đối với xã hội.”(10). “Khuyến khích phát triển các loại hình doanh nghiệp với hình thức sở hữu hỗn hợp như: công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn nhiều thành viên, công ty hợp danh, hợp tác xã cổ phần. Rà soát, bổ sung, hoàn thiện các quy định luật pháp về quyền và nghĩa vụ trước pháp luật của người sở hữu (hội đồng quản trị), quyền và trách nhiệm của người được chủ sở hữu giao quản lý sử dụng các tài sản để kinh doanh (ban giám đốc); phân phối lợi nhuận tạo ra cho người chủ sở hữu, người được giao quản lý sử dụng và người lao động”(11)
Đại hội XII của Đảng tiếp tục đưa ra nhận thức rõ hơn về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đã xác định đó là “nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế; có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh" (12). Từ đó khẳng định “nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam có quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế; các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật”(13)
Trong bối cảnh mới của phát triển đất nước, Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh: “Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh" phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam có nhiều hình thức sở hữu” (20)
Để đảm bảo cho quan hệ sở hữu phát huy vai trò điều kiện cho phát triển Đảng ta không những xác định rõ vị trí vai trò của từng chủ thể, đặc biệt là Nhà nước trong hoàn thiện quan hệ sở hữu, mà còn chủ trương phát triển những quan hệ hợp tác, liên kết, giao thoa giữa các hình thức sở hữu tạo thuận lợi cho thúc đẩy xã hội hóa sản xuất, phát triển sản xuất theo chuỗi giá trị, không ngừng nâng cao sức cạnh tranh của các chủ thể kinh tế. “Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, giữa Nhà nước, thị trường và xã hội có quan hệ chặt chẽ. Nhà nước xây dựng và hoàn thiện thể chế, bảo vệ quyền tài sản”(21), “Tăng cường liên kết giữa các hợp tác xã, hình thành các hiệp hội, liên hiệp hợp tác xã” (22), “Khuyến khích doanh nghiệp tư nhân hợp tác, liên kết với doanh nghiệp nhà nước, hợp tác xã, kinh tế hộ; phát triển các công ty cổ phần có sự tham gia rộng rãi của các chủ thể xã hội, nhất là người lao động”(23). “Bảo vệ quyền sở hữu tài sản hợp pháp và quyền tự do kinh doanh, thực thi hợp đồng của người dân, doanh nghiệp theo quy định của pháp luật”(24).
2. Thực trạng các hình thức và quan hệ sở hữu, các vấn đề hiện nay trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
2.1 Thực trạng hình thức và quan hệ sở hữu ở Việt Nam hiện nay
Việt Nam có hệ thống các loại hình sở hữu đa dạng, phản ánh quá trình phát triển kinh tế - xã hội và chuyển đổi theo hướng hiện đại hóa. Sự chuyển biến này vừa là kết quả của các cải cách kinh tế từ thời kỳ Đổi mới, vừa là nỗ lực để hài hòa các loại hình sở hữu, thúc đẩy tăng trưởng bền vững và công bằng xã hội. Dưới đây là phân tích chi tiết các loại hình sở hữu hiện có và sự chuyển biến của chúng:
Thứ nhất, các loại hình sở hữu chính ở Việt Nam
Theo quy định của Hiến pháp và Luật Đất đai, hệ thống sở hữu của Việt Nam hiện tại bao gồm ba loại hình chính: sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể và sở hữu tư nhân. Mỗi loại hình sở hữu có vai trò, ý nghĩa và phạm vi ứng dụng khác nhau trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Sở hữu toàn dân: Đây là hình thức sở hữu của nhà nước, đại diện cho toàn dân và thường áp dụng cho các tài sản công cộng quan trọng như đất đai, rừng, tài nguyên nước, khoáng sản và các tài sản chiến lược khác. Nhà nước quản lý và điều tiết tài sản này nhằm đảm bảo lợi ích chung, đồng thời duy trì sự kiểm soát đối với các nguồn lực quốc gia.
Sở hữu tập thể: Sở hữu tập thể chủ yếu được thể hiện qua các hợp tác xã và các tổ chức kinh tế của cộng đồng, đặc biệt là trong nông nghiệp, ngư nghiệp và một số ngành dịch vụ. Hình thức này phản ánh sự tham gia cộng đồng vào quá trình sản xuất và phân phối lợi ích, giúp gia tăng tính đoàn kết và hỗ trợ lẫn nhau.
Sở hữu tư nhân: Sở hữu tư nhân đã phát triển mạnh mẽ từ khi Việt Nam thực hiện cải cách Đổi mới (1986), cho phép cá nhân và doanh nghiệp tư nhân sở hữu và khai thác tài sản, đặc biệt trong các ngành như thương mại, dịch vụ và công nghiệp nhẹ. Đây là nguồn động lực lớn cho tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội, tạo điều kiện cho đầu tư cá nhân và cạnh tranh lành mạnh trong thị trường.
Thứ hai, sự chuyển biến của các loại hình sở hữu tại Việt Nam
Trong các thập kỷ qua, hệ thống sở hữu của Việt Nam đã trải qua nhiều chuyển biến đáng kể nhằm thích ứng với các yêu cầu của nền kinh tế thị trường và sự hội nhập quốc tế.
Gia tăng tỷ trọng sở hữu tư nhân và doanh nghiệp tư nhân: Từ sau Đổi mới, tỷ trọng kinh tế tư nhân trong nền kinh tế Việt Nam đã không ngừng gia tăng. Nhiều doanh nghiệp tư nhân đã phát triển lớn mạnh, thậm chí có sự tham gia của các tập đoàn tư nhân vào các lĩnh vực như sản xuất công nghiệp, tài chính, và bất động sản. Điều này không chỉ thúc đẩy hiệu quả kinh tế mà còn tạo ra nhiều việc làm và thu nhập cho người lao động.
Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước: Một trong những chuyển biến quan trọng trong thời gian qua là quá trình cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước. Quá trình này nhằm tăng cường hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp thông qua việc thu hút vốn từ các nhà đầu tư tư nhân, cải tiến quản trị doanh nghiệp và giảm gánh nặng ngân sách cho nhà nước.
Phát triển sở hữu hỗn hợp: Sự chuyển biến trong cơ cấu sở hữu còn thể hiện qua việc phát triển hình thức sở hữu hỗn hợp (công - tư hợp tác) trong nhiều lĩnh vực quan trọng, bao gồm cơ sở hạ tầng, năng lượng, và các dịch vụ công ích. Điều này không chỉ nâng cao hiệu quả sử dụng vốn mà còn tăng cường nguồn lực cho phát triển kinh tế bền vững.
Quản lý và bảo vệ sở hữu công cộng: Trong bối cảnh đô thị hóa và phát triển kinh tế, Việt Nam đang gặp phải thách thức trong việc quản lý và bảo vệ sở hữu công cộng, đặc biệt là đất đai và tài nguyên thiên nhiên. Nhà nước đã đưa ra các chính sách nhằm tăng cường kiểm soát, ngăn chặn khai thác bất hợp pháp, và bảo vệ quyền lợi của cộng đồng trong việc sử dụng tài nguyên.
Thứ ba, tác động của chuyển biến sở hữu đến kinh tế - xã hội
Những chuyển biến về sở hữu tại Việt Nam đã mang lại nhiều tác động tích cực đến phát triển kinh tế - xã hội:
Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế: Sự mở rộng sở hữu tư nhân và đầu tư từ khu vực tư nhân đã góp phần vào tốc độ tăng trưởng kinh tế cao của Việt Nam trong những năm qua, cải thiện mức sống của người dân.
Tạo công bằng xã hội: Dù sở hữu tư nhân mở rộng, sở hữu công cộng vẫn giữ vai trò chủ đạo trong nhiều lĩnh vực quan trọng, như đất đai và tài nguyên quốc gia, giúp đảm bảo quyền lợi chung của người dân.
Hướng tới phát triển bền vững: Các chính sách sở hữu tài sản công cộng và bảo vệ tài nguyên thiên nhiên nhằm đảm bảo phát triển bền vững, đáp ứng nhu cầu hiện tại mà không gây ảnh hưởng tiêu cực đến thế hệ sau.
Tóm lại, hệ thống sở hữu tại Việt Nam đã trải qua quá trình chuyển đổi và thích ứng mạnh mẽ để đáp ứng các yêu cầu của nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế. Điều này không chỉ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế mà còn giúp duy trì công bằng xã hội và hướng tới phát triển bền vững.
Thứ tư, vai trò của sở hữu công, tư, và hỗn hợp trong nền kinh tế
Để phân tích sâu sắc vai trò của các loại hình sở hữu tại Việt Nam, chúng ta sẽ xem xét cả ba hình thức sở hữu chính: sở hữu toàn dân (chủ yếu là sở hữu nhà nước), sở hữu tập thể và sở hữu tư nhân. Các số liệu thống kê đáng tin cậy từ Tổng cục Thống kê Việt Nam, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, sẽ cung cấp cái nhìn tổng quan hơn về mức độ đóng góp của từng loại hình sở hữu vào nền kinh tế.
Sở hữu toàn dân (sở hữu nhà nước): Sở hữu toàn dân, chủ yếu là các doanh nghiệp nhà nước (DNNN), đóng vai trò quan trọng trong nhiều lĩnh vực chiến lược như năng lượng, viễn thông, và cơ sở hạ tầng. Các doanh nghiệp nhà nước này hiện đảm nhận các ngành, lĩnh vực quan trọng, góp phần đảm bảo an ninh kinh tế và kiểm soát các nguồn lực chủ chốt. Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, đến hết năm 2023, Việt Nam có 676 doanh nghiệp nhà nước, trong đó gồm 478 doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ và 198 doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ cổ phần chi phối. Doanh nghiệp nhà nước hiện diện ở nhiều ngành, lĩnh vực có vai trò, vị trí quan trọng của nền kinh tế. Trong 478 doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ (gồm 143 doanh nghiệp do các cơ quan trung ương quản lý; 335 doanh nghiệp địa phương) có 6 tập đoàn kinh tế, 53 tổng công ty nhà nước; 18 công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên hoạt động theo mô hình công ty mẹ - công ty con và 401 công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên độc lập(27)
Các DNNN đảm bảo an ninh kinh tế, điều tiết thị trường trong những lĩnh vực nhạy cảm, giúp bảo vệ lợi ích quốc gia. DNNN cũng góp phần tạo ra việc làm, dù thường gặp phải những thách thức về hiệu quả và cần đến các cải cách để nâng cao tính cạnh tranh và hiệu suất.
Sở hữu tập thể: Sở hữu tập thể tại Việt Nam chủ yếu thể hiện qua các hợp tác xã, đặc biệt là trong lĩnh vực nông nghiệp, ngư nghiệp, và dịch vụ nông thôn. Các hợp tác xã là một trong những hình thức sở hữu tập thể điển hình, cung cấp các dịch vụ hỗ trợ sản xuất, tiêu thụ sản phẩm, và phát triển kinh tế cộng đồng. Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tính đến năm 2023, Việt Nam có 30.698 hợp tác xã. Trong đó có 20.500 hợp tác xã nông nghiệp (chiếm 66,7%) và gần 10.200 hợp tác xã phi nông nghiệp (chiếm 33,3%)(28). Các hợp tác xã nông nghiệp đóng góp khoảng 13-15% vào tổng sản phẩm nội địa (GDP) của ngành nông nghiệp. Sở hữu tập thể thông qua hợp tác xã giúp nâng cao năng suất nông nghiệp, đồng thời tăng cường vai trò của cộng đồng trong phát triển kinh tế nông thôn. Các hợp tác xã đã góp phần cải thiện đời sống nông dân, giảm thiểu chênh lệch giàu nghèo giữa nông thôn và thành thị. Tuy nhiên, hợp tác xã cần tiếp tục đổi mới về mô hình quản lý và cơ chế hoạt động để tăng tính cạnh tranh.
Sở hữu tư nhân: Sở hữu tư nhân là động lực chính cho tăng trưởng kinh tế của Việt Nam từ sau thời kỳ Đổi mới, chiếm tỷ trọng lớn trong nền kinh tế. Kinh tế tư nhân bao gồm cả các doanh nghiệp nhỏ, vừa và lớn, đóng góp tích cực vào GDP và tạo ra hàng triệu việc làm. Theo Tổng cục Thống kê, khu vực kinh tế tư nhân trong nước hiện đóng góp xấp xỉ 50% GDP; trong đó, bộ phận doanh nghiệp đăng ký chính thức đóng góp hơn 10% GDP và khu vực hộ kinh doanh cá thể, hộ sản xuất nông nghiệp, trang trại và các cơ sở kinh tế, cá nhân kinh doanh khác chiếm khoảng 40% GDP(29). Khu vực này cũng chiếm khoảng 85% tổng số việc làm trong toàn bộ nền kinh tế, bao gồm các lĩnh vực như sản xuất công nghiệp, thương mại và dịch vụ. Kinh tế tư nhân đã trở thành động lực chính thúc đẩy tăng trưởng và đổi mới công nghệ. Các doanh nghiệp tư nhân có khả năng ứng phó nhanh với thị trường và đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng, từ đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và hiện đại hóa đất nước. Tuy nhiên, các doanh nghiệp tư nhân cũng đối diện với các thách thức về quy mô, tính chuyên nghiệp và mức độ tiếp cận nguồn vốn, đòi hỏi các chính sách hỗ trợ phát triển khu vực này.
Tác động của sự kết hợp giữa các loại hình sở hữu: Sự tồn tại và kết hợp giữa các loại hình sở hữu đã tạo ra một nền tảng kinh tế đa dạng, cân đối giữa các mục tiêu xã hội và hiệu quả kinh tế. DNNN đảm bảo an ninh kinh tế quốc gia, sở hữu tập thể giúp tăng cường đoàn kết và phát triển cộng đồng, trong khi sở hữu tư nhân thúc đẩy đổi mới và tăng trưởng nhanh chóng. Khu vực nhà nước chiếm khoảng 28% GDP, khu vực tư nhân đóng góp 40%GDP, và khu vực tập thể chiếm một phần nhỏ hơn nhưng có ý nghĩa quan trọng đối với nông nghiệp và phát triển cộng đồng. Sự phối hợp giữa các loại hình sở hữu đã giúp Việt Nam duy trì tốc độ tăng trưởng GDP trung bình 6-7% mỗi năm trong các năm qua.
Tóm lại, các loại hình sở hữu hiện có ở Việt Nam đều có vai trò quan trọng và tác động sâu sắc đến nền kinh tế - xã hội. Mỗi loại hình sở hữu đều đóng góp vào phát triển kinh tế, đảm bảo công bằng xã hội và hướng tới phát triển bền vững, từ đó tạo nên một nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có bản sắc riêng biệt.
2.2. Những khó khăn và thách thức trong việc thực hiện quyền sở hữu đảm bảo giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam.
Thứ nhất, khó khăn trong việc duy trì quyền sở hữu công cộng và kiểm soát tài nguyên: Sở hữu công cộng được xem là nền tảng của kinh tế xã hội chủ nghĩa, giúp nhà nước kiểm soát và phân phối các tài nguyên quan trọng. Tuy nhiên, việc thực hiện quyền sở hữu công cộng đang gặp một số khó khăn. Thách thức lớn trong quản lý tài nguyên thiên nhiên, đất đai và tài sản công cộng là ngăn chặn các hành vi lạm dụng, tham nhũng. Trong một số trường hợp, sự quản lý yếu kém đã dẫn đến tình trạng tài sản công bị xâm phạm, gây lãng phí và mất mát tài nguyên quốc gia.
Thứ hai, xung đột giữa quyền sở hữu tư nhân và mục tiêu công bằng xã hội: Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, C. Mác và Ph. Ăngghen khẳng định “đặc trưng của chủ nghĩa cộng sản không phải là xóa bỏ chế độ sở hữu nói chung, mà là xóa bỏ chế độ sở hữu tư sản...” (30), “Chủ nghĩa cộng sản không tước bỏ của ai cái khả năng chiếm hữu những sản phẩm xã hội cả. Chủ nghĩa cộng sản chỉ tước bỏ quyền dùng sự chiếm hữu ấy để nô dịch lao động của người khác”(31). Trong nền kinh tế thị trường, quyền sở hữu tư nhân đóng vai trò quan trọng trong thúc đẩy đầu tư và đổi mới. Tuy nhiên, sự mở rộng của khu vực tư nhân có thể tạo ra các vấn đề về bất bình đẳng kinh tế và ảnh hưởng đến tính công bằng xã hội. Việc giàu lên nhanh chóng của một bộ phận người dân có thể gây ra bất công trong xã hội, trái ngược với mục tiêu xã hội chủ nghĩa là giảm bất bình đẳng.
Thứ ba, thách thức về cổ phần hóa và cải cách doanh nghiệp nhà nước (DNNN): Quá trình cổ phần hóa và cải cách DNNN nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động đã đặt ra nhiều thách thức cho Việt Nam trong việc duy trì quyền sở hữu công cộng và đảm bảo vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước: Việc cổ phần hóa giúp tăng cường hiệu quả kinh tế của DNNN nhưng lại đặt ra câu hỏi về vai trò kiểm soát của nhà nước. Khi cổ phần hóa sâu rộng, tỷ lệ sở hữu của nhà nước giảm, dẫn đến lo ngại về mất quyền kiểm soát trong các lĩnh vực chiến lược. Quá trình cổ phần hóa cũng đối diện với nguy cơ tài sản công bị định giá thấp và chuyển giao không minh bạch, dẫn đến thất thoát tài sản nhà nước. Việc thiếu cơ chế giám sát chặt chẽ và minh bạch là một trong những yếu tố gây ra tình trạng này.
Thứ tư, đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa trong sở hữu đất đai: Đất đai ở Việt Nam thuộc sở hữu toàn dân và do nhà nước đại diện quản lý. Việc quản lý đất đai sao cho vừa đảm bảo hiệu quả kinh tế vừa duy trì tính xã hội chủ nghĩa là một thách thức lớn. Sự tăng trưởng của thị trường bất động sản và tình trạng đầu cơ đất đai đã dẫn đến giá trị đất đai tăng cao. Điều này gây khó khăn trong việc đảm bảo quyền lợi cho người dân, nhất là người dân có thu nhập thấp, và đi ngược với mục tiêu công bằng xã hội. Tình trạng tranh chấp đất đai diễn ra phổ biến, đặc biệt là tại các khu vực đô thị và các dự án phát triển. Điều này xuất phát từ việc thiếu rõ ràng trong quyền sử dụng đất và quy trình quản lý không đồng bộ, gây ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống của người dân và tính ổn định xã hội.
Thứ năm, thách thức trong việc kiểm soát quyền sở hữu nước ngoài:
Để bảo vệ lợi ích quốc gia, Việt Nam cần có các biện pháp kiểm soát đầu tư nước ngoài trong các lĩnh vực nhạy cảm như viễn thông, năng lượng, và tài chính. Tuy nhiên, việc thiết lập các quy định này có thể gặp khó khăn khi phải cân nhắc giữa lợi ích phát triển kinh tế và bảo vệ quyền sở hữu quốc gia. Trong một số trường hợp, quyền lợi của người lao động và quyền sở hữu trí tuệ có thể bị ảnh hưởng khi các doanh nghiệp nước ngoài ưu tiên lợi nhuận hơn trách nhiệm xã hội. Điều này đòi hỏi chính phủ phải có chính sách quản lý chặt chẽ để bảo vệ quyền lợi của người lao động Việt Nam và tránh tình trạng "chảy máu chất xám."
Như vậy, các khó khăn và thách thức trong việc thực hiện quyền sở hữu ở Việt Nam phản ánh những căng thẳng và phức tạp trong quá trình xây dựng một nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Để vượt qua những thách thức này, Việt Nam cần thực hiện các biện pháp cải cách, tăng cường năng lực quản lý nhà nước, và thiết lập cơ chế kiểm soát chặt chẽ, từ đó vừa phát triển kinh tế bền vững, vừa duy trì công bằng xã hội và bảo vệ lợi ích quốc gia.
3. Giải pháp tiếp tục đổi mới và hoàn thiện các hình thức và quan hệ sở hữu bảo đảm giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa
Thứ nhất, hoàn thiện thể chế về sở hữu và thành phần kinh tế nhà nước ở Việt Nam:
Một là, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng với đổi mới, hoàn thiện thể chế về sở hữu và thành phần kinh tế nhà nước. Tăng cường công tác xây dựng Đảng trong các doanh nghiệp nhà nước có quy mô, hiệu quả kinh doanh cao và doanh nghiệp công nghệ tiên tiến, gắn trách nhiệm kinh tế, trách nhiệm xã hội với trách nhiệm chính trị.
Hai là, đẩy mạnh cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước trọng tâm là Tập đoàn kinh tế, Tổng công ty một cách toàn diện. Xây dựng những tập đoàn kinh tế nhà nước mạnh, có sức cạnh tranh lớn trên thị trường quốc tế. Thực hiện tốt trách nhiệm xã hội trên phạm vi toàn cầu.
Ba là, Mở rộng chế độ sở hữu hỗn hợp giữa nhà nước với các khu vực kinh tế khác, để tài sản nhà nước được phân phối linh hoạt trong các khu vực của nền kinh tế. Đẩy mạnh cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước tại những khu vực nhà nước không nhất thiết phải nắm giữ. Tập trung hơn nữa các nguồn lực của nhà nước vào những ngành, lĩnh vực then chốt, cung cấp sản phẩm, dịch vụ công ích thiết yếu, làm nòng cốt để kinh tế nhà nước thực hiện được vai trò quan trọng, dẫn dắt, tạo động lực, mở đường, hướng dẫn, cuốn hút, thúc đẩy các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác cùng phát triển
Bốn là, đưa kinh tế nhà nước thực sự trở thành là lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước định hướng, điều tiết, ổn định kinh tế vĩ mô.
Năm là, đổi mới quản trị doanh nghiệp nhà nước. Hoàn thiện công tác kế hoạch hóa, tăng cường giám sát, quản lý tài sản nhà nước, giám sát quản lý ở tất cả các khâu, tăng tính thị trường và tính chủ động trong phương thức giám sát, quản lý, kiên quyết ngăn chặn tình trạng thất thoát tài sản nhà nước. Tách bạch giữa quyền sở hữu của nhà nước với quyền quản lý sử dụng vốn nhà nước tại các doanh nghiệp. Tăng cường quản lý của nhà nước với các doanh nghiệp nhà nước, định hướng phát triển cho khu vực này, đồng thời phát hiện kịp thời những lệch lạc, có biện pháp hỗ trợ, đảm bảo tính hiệu và và vai trò then chốt của khu vực kinh tế Nhà nước. Tăng cường phân quyền đối với các doanh nghiệp có hiệu quả kinh doanh cao và doanh nghiệp công nghệ tiên tiến. Cơ quan quản lý tài sản nhà nước phải nỗ lực thu hẹp phạm vi ảnh hưởng xấu, thực hiện phân quyền nhiều nhất có thể, tăng cường quyền tự chủ cho các doanh nghiệp trên.
Thứ hai, nâng cao nhận thức và trách nhiệm của các cơ quan quản lý: Nhận thức đúng và hành động hiệu quả từ các cơ quan quản lý nhà nước đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện các chính sách liên quan đến quan hệ sở hữu. Các giải pháp bao gồm: Hiện đại hóa quy trình quản lý sở hữu thông qua công nghệ số, giảm tình trạng quản lý lỏng lẻo và trùng lặp. Tăng cường giám sát, kiểm tra và xử lý sai phạm trong lĩnh vực quản lý sở hữu; Đưa ra cơ chế đánh giá trách nhiệm và năng lực của các cơ quan quản lý theo tiêu chí minh bạch, công bằng. Cung cấp thông tin đầy đủ, chính xác cho người dân về quyền sở hữu và cơ chế pháp lý bảo vệ quyền lợi này.
Thứ tư, củng cố và hoàn thiện chế độ sở hữu toàn dân về đất đai:
Hiến pháp năm 1980 ra đời đã tạo cơ sở pháp lý cho việc xây dựng chế độ sở hữu toàn dân về đất đai với quy định đất đai là của Nhà nước thuộc sở hữu toàn dân (Điều 19). Kể từ đó đến nay, chế độ sở hữu toàn dân đối với đất đai luôn luôn được khẳng định trong các văn bản pháp luật đất đai của Nhà nước ta. Tuy nhiên, trong điều kiện kinh tế thị trường, chế độ sở hữu toàn dân về đất đai cần phải được củng cố và hoàn thiện cho phù hợp với những đòi hỏi của thực tiễn.
Đại hội XIII của Đảng đã khẳng định: “Xây dựng chiến lược, hoàn thiện hệ thống thể chế quản lý, sử dụng có hiệu quả tài nguyên, trọng tâm là đất đai... Quản lý chặt chẽ và sử dụng có hiệu quả đất công, đất có nguồn gốc nông, lâm trường. Tăng cường thanh tra, kiểm tra việc quản lý, sử dụng đất, kịp thời phát hiện, xử lý dứt điểm các vi phạm, tranh chấp, lấn chiếm đất đai. Kiên quyết ngăn chặn, xử lý nghiêm các hành vi tham nhũng, trục lợi, làm thất thoát nguồn thu ngân sách liên quan đến đất. Hoàn chỉnh công tác điều tra cơ bản, đánh giá, xây dựng cơ sở dữ liệu về tài nguyên đất, nước, rừng, biển, khoáng sản và đa dạng sinh học”(32)
Thứ tư, cân bằng giữa quyền sở hữu tư nhân và mục tiêu công bằng xã hội: Quyền sở hữu tư nhân đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy kinh tế thị trường, khuyến khích sáng tạo và nâng cao hiệu quả sản xuất. Tuy nhiên, để đảm bảo công bằng xã hội, cần có những giải pháp cân bằng giữa lợi ích cá nhân và lợi ích cộng đồng. Một số giải pháp cụ thể: Xây dựng và hoàn thiện các quy định pháp luật nhằm bảo vệ quyền sở hữu tư nhân hợp pháp, đồng thời ngăn chặn các hành vi lạm dụng quyền lực hoặc chiếm đoạt tài sản trái phép. Thiết lập cơ chế pháp lý rõ ràng để giải quyết các tranh chấp liên quan đến sở hữu, đảm bảo tính minh bạch và công bằng; Tăng cường đầu tư vào các lĩnh vực giáo dục, y tế, nhà ở và phúc lợi xã hội để đảm bảo người dân có quyền tiếp cận công bằng với các dịch vụ cơ bản. Hỗ trợ các đối tượng yếu thế trong xã hội, như người nghèo, người khuyết tật, và các nhóm dễ bị tổn thương khác; Khuyến khích các mô hình kinh tế hợp tác xã, doanh nghiệp xã hội, nơi người lao động cùng sở hữu và chia sẻ lợi ích. Phát triển các dự án cộng đồng hoặc các chương trình liên kết nhằm giảm sự phụ thuộc vào sở hữu tư nhân trong các lĩnh vực quan trọng như đất đai, tài nguyên thiên nhiên; Nhà nước cần đóng vai trò trung gian trong việc phân phối lại tài sản thông qua các chương trình trợ cấp, hỗ trợ phát triển vùng khó khăn. Đẩy mạnh công tác kiểm tra, giám sát nhằm ngăn chặn việc thao túng, độc quyền kinh tế, gây bất công trong phân phối tài sản; Đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục ý thức trách nhiệm xã hội của cá nhân và doanh nghiệp trong việc hỗ trợ cộng đồng, đóng góp vào sự phát triển chung. Xây dựng văn hóa chia sẻ, tương trợ lẫn nhau, khuyến khích các hoạt động từ thiện, đóng góp tự nguyện từ các tổ chức và cá nhân có tiềm lực kinh tế.
Thứ năm, nâng cao hiệu quả việc kiểm soát quyền sở hữu nước ngoài: Quyền sở hữu nước ngoài đóng vai trò quan trọng trong việc thu hút đầu tư, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, và hội nhập quốc tế. Tuy nhiên, để bảo vệ lợi ích quốc gia và duy trì ổn định kinh tế - xã hội, cần có các giải pháp hiệu quả trong việc kiểm soát quyền sở hữu nước ngoài: Xây dựng và điều chỉnh các quy định pháp luật để giới hạn lĩnh vực, ngành nghề mà nhà đầu tư nước ngoài được phép tham gia sở hữu. Quy định rõ ràng về tỷ lệ sở hữu tối đa mà các cá nhân, tổ chức nước ngoài có thể nắm giữ trong các lĩnh vực quan trọng như tài chính, viễn thông, năng lượng, quốc phòng. Đảm bảo sự nhất quán trong các quy định pháp luật nhằm tránh tình trạng lách luật. Ví dụ: Việt Nam đã giới hạn tỷ lệ sở hữu nước ngoài tại các ngân hàng thương mại cổ phần ở mức 30%. Trung Quốc có các quy định nghiêm ngặt về đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực công nghệ cao và quốc phòng; Yêu cầu các nhà đầu tư nước ngoài cam kết thực hiện trách nhiệm xã hội như bảo vệ môi trường, hỗ trợ cộng đồng địa phương, và tạo việc làm cho người lao động trong nước. Xây dựng các tiêu chí đánh giá nhà đầu tư nước ngoài dựa trên các chỉ số phát triển bền vững. Chẳng hạn nhiều quốc gia yêu cầu các doanh nghiệp nước ngoài phải tham gia vào các dự án phát triển cộng đồng như xây dựng trường học, bệnh viện; Xây dựng các chính sách ưu đãi thuế, tín dụng và hỗ trợ kỹ thuật để giúp doanh nghiệp trong nước cạnh tranh công bằng với doanh nghiệp nước ngoài; Khuyến khích các doanh nghiệp trong nước hợp tác, liên doanh với doanh nghiệp nước ngoài để học hỏi và nâng cao năng lực. Chính phủ Hàn Quốc đã hỗ trợ mạnh mẽ các tập đoàn lớn như Samsung, Hyundai để giúp họ cạnh tranh với các đối thủ nước ngoài.
III. Kết luận
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và cách mạng công nghiệp 4.0, việc tiếp tục đổi mới và hoàn thiện các hình thức và quan hệ sở hữu ở Việt Nam không chỉ là yêu cầu khách quan mà còn là nhiệm vụ chính trị, kinh tế và xã hội quan trọng nhằm giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa. Những thách thức hiện nay như bất bình đẳng sở hữu, quản lý chưa hiệu quả tài nguyên và tài sản công, cũng như áp lực cạnh tranh quốc tế, đòi hỏi Việt Nam phải: Hoàn thiện hệ thống pháp luật về quan hệ sở hữu, đảm bảo đồng bộ, minh bạch và công bằng giữa các loại hình sở hữu; Nâng cao năng lực quản lý và ý thức trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, đảm bảo việc thực thi chính sách sở hữu hiệu quả; Học hỏi kinh nghiệm quốc tế và phát huy các giá trị văn hóa, xã hội đặc thù của Việt Nam để xây dựng mô hình sở hữu phù hợp, bền vững.
ThS Phan Thanh Hoài
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, t.4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995.
2. V.I. Lênin: Toàn tập, t.36, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006.
3. ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, Hà Nội, 2011.
4. ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb CTQG, Hà Nội, 2016.
5. ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb CTQG, Hà Nội, 2021.
6. Thanh Giang: Doanh nghiệp nhà nước phải tiên phong, giữ vai trò chủ đạo, dẫn dắt trong nền kinh tế, Báo Nhân dân điện tử, ngày 3-3-2024, https://nhandan.vn/no-luc-vuot-qua-moi-kho-khan-thach-thuc-phat-huy-vai-tro-chu-dao-cua-doanh-nghiep-nha-nuocpost798408.html
7. Bộ Kế hoạch và Đầu tư: Phát huy hơn nữa vai trò của kinh tế hợp tác, hợp tác xã trong nền kinh tế, https://www.mpi.gov.vn/portal/Pages/2024-2-2/Phat-huy-hon-nua-vai-tro-cua-kinh-te-hop-tac-hop-tndcp65.aspx
8. Bộ Kế hoạch và Đầu tư: Kinh tế tư nhân mang lại giá trị gấp 2,5 lần đầu tư công và 3,5 lần đầu tư nước ngoài. https://thitruongtaichinhtiente.vn/kinh-te-tu-nhan-mang-lai-gia-tri-gap-2-5-lan-dau-tu-cong-va-3-5-lan-dau-tu-nuoc-ngoai-66433.html
(1) C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 1995, t. 4, tr.626
(2) C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 4, tr. 469
(3) C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t 4, tr 616
(4) C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t 4, tr 615
(6) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, Hà Nội, 2011, tr.70
(7) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, Hà Nội, 2011, tr.72
(8) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, Hà Nội, 2011, tr.73
(9) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, Hà Nội, 2011, tr.74
(10) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, Hà Nội, 2011, tr.206-207
(11) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, Hà Nội, 2011, tr.209-210
(12) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb CTQG, Hà Nội, 2016, tr.102
(13) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb CTQG, Hà Nội, 2016, tr.102-103
(20) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb CTQG ST, Hà Nội, 2021, Tập 1, tr.128-129
(21) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb CTQG ST, Hà Nội, 2021, Tập 1, tr.130
(22) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb CTQG ST, Hà Nội, 2021, tập 1, tr.130
(23) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb CTQG ST, Hà Nội, 2021, tập 1, tr.130
(24) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb CTQG ST, Hà Nội, 2021, tập 1, tr.223
(27) Thanh Giang: Doanh nghiệp nhà nước phải tiên phong, giữ vai trò chủ đạo, dẫn dắt trong nền kinh tế, Báo Nhân dân điện tử, ngày 3-3-2024, https://nhandan.vn/no-luc-vuot-qua-moi-kho-khan-thach-thuc-phat-huy-vai-tro-chu-dao-cua-doanh-nghiep-nha-nuocpost798408.html
(28) Bộ Kế hoạch và Đầu tư: Phát huy hơn nữa vai trò của kinh tế hợp tác, hợp tác xã trong nền kinh tế, https://www.mpi.gov.vn/portal/Pages/2024-2-2/Phat-huy-hon-nua-vai-tro-cua-kinh-te-hop-tac-hop-tndcp65.aspx
(29) Bộ Kế hoạch và Đầu tư: Kinh tế tư nhân mang lại giá trị gấp 2,5 lần đầu tư công và 3,5 lần đầu tư nước ngoài. https://thitruongtaichinhtiente.vn/kinh-te-tu-nhan-mang-lai-gia-tri-gap-2-5-lan-dau-tu-cong-va-3-5-lan-dau-tu-nuoc-ngoai-66433.html
(30) C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 4, tr. 615
(31) C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 4, tr. 618
(32) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị Quốc gia Sự thật, H., 2021, tập 1, tr. 152-153