Tăng trưởng xanh hay xây dựng nền kinh tế xanh là quá trình tái cơ cấu lại hoạt động kinh tế và cơ sở hạ tầng để thu được kết quả tốt hơn từ các khoản đầu tư cho tài nguyên, nhân lực và tài chính, đồng thời giảm phát thải khí nhà kính (KNK), ứng phó với biến đổi khí hậu (BĐKH), khai thác và sử dụng ít tài nguyên thiên nhiên hơn, tạo ra ít chất thải hơn, góp phần xóa đói, giảm nghèo, tạo động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững và giảm sự mất công bằng trong xã hội. Xác định tăng trưởng xanh là xu thế phát triển tất yếu, Việt Nam tiên phong, chủ động hội nhập trên hành trình xanh toàn cầu. Trong quá trình chuyển dịch cơ cấu từ “nâu” sang “xanh”, cộng đồng doanh nghiệp được xác định là nhân tố trọng tâm.
Doanh nghiệp nhỏ và vừa chiếm tỷ lệ lớn trong cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam, nộp ngân sách nhà nước 30%, đóng góp giá trị sản lượng công nghiệp 33%, giá trị hàng hóa xuất khẩu 30% và thu hút gần 60% lao động.
Cơ sở pháp lý gắn với tiếp cận tăng trưởng xanh cho doanh nghiệp nhỏ và vừa
Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh
Ngày 25/9/2012, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 1393/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh thời kỳ 2011 - 2020 và tầm nhìn đến năm 2050. Trong đó, đề ra hai nhiệm vụ chiến lược:
Thứ nhất, xanh hoá sản xuất; thực hiện một chiến lược công nghiệp hoá sạch thông qua rà soát, điều chỉnh những quy hoạch ngành hiện có; sử dụng tiết kiệm và hiệu quả tài nguyên; khuyến khích phát triển công nghệ xanh, nông nghiệp xanh.
Thứ hai, xanh hoá lối sống và thúc đẩy tiêu dùng bền vững; kết hợp lối sống đẹp truyền thống với những phương tiện văn minh hiện đại.
Ngày 01/10/2021, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 1658/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn 2050. Trong đó khẳng định: Tăng trưởng xanh là sự tăng trưởng dựa trên quá trình thay đổi mô hình tăng trưởng, tái cơ cấu nền kinh tế nhằm tận dụng lợi thế so sánh, nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế thông qua việc nghiên cứu và áp dụng công nghệ tiên tiến, phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng hiện đại để sử dụng hiệu quả tài nguyên thiên nhiên, giảm phát thải KNK, ứng phó với BĐKH, góp phần xóa đói giảm nghèo và tạo động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế một cách bền vững...
Để đảm bảo phát triển bền vững, tăng trưởng xanh, Chính phủ xác định: Đẩy mạnh áp dụng rộng rãi sản xuất sạch hơn; nâng cao hiệu quả sử dụng tài nguyên thiên nhiên, đồng thời giảm thiểu phát thải và hạn chế mức độ gia tăng ô nhiễm, bảo vệ chất lượng môi trường, sức khỏe con người, đảm bảo phát triển bền vững; Xây dựng văn hóa tiêu dùng văn minh, hài hòa và thân thiện với thiên nhiên; Từng bước thực hiện dán nhãn sinh thái, mua sắm xanh; Phát triển thị trường sản phẩm sinh thái và sáng kiến cộng đồng về sản xuất và tiêu dùng bền vững...
Chiến lược tăng trưởng xanh là cơ sở pháp lý quan trọng để xây dựng các chính sách liên quan đến kinh tế xanh ở Việt Nam trong giai đoạn tới. Chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng xanh đã trở thành đường lối, quan điểm của Đảng và chính sách xuyên suốt của Nhà nước và là một nội dung căn bản của đường hướng phát triển ở Việt Nam hiện nay.
Các văn bản quy phạm pháp luật liên quan
Ngày 03/6/2013, Ban Chấp hành Trung ương Ðảng đã ban hành Nghị quyết số 24/NQ-TW về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường, với nhiệm vụ trọng tâm là thúc đẩy chuyển đổi mô hình tăng trưởng gắn với cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng tăng trưởng xanh và phát triển bền vững.
Cùng với đó, Quốc hội đã ban hành mới, hoặc bổ sung, sửa đổi một số luật liên quan đến tăng trưởng xanh như: Luật Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả; Luật Phòng chống thiên tai; Luật Bảo vệ môi trường sửa đổi; Luật Khí tượng thủy văn. Một số văn bản pháp quy mới đã được xây dựng nhằm thúc đẩy thực hiện các hoạt động liên quan tới tăng trưởng xanh. Cụ thể:
- Trong lĩnh vực công nghiệp: Quy hoạch tổng thể ngành Điện, các nhà máy điện; Quy hoạch tổng thể các ngành, phân ngành công nghiệp, đặc biệt là những phân ngành và cơ sở tác động mạnh tới môi trường nhằm phát triển ngành bền vững, sử dụng tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên, kiểm soát ô nhiễm và quản lý chất thải một cách hiệu quả. Đặc biệt, đã xây dựng Chiến lược Phát triển Năng lượng tái tạo ở Việt Nam đến năm 2030 và tầm nhìn đến 2050; xây dựng khung pháp lý về sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả trong sản xuất và đời sống; tiêu chuẩn hiệu suất năng lượng tối thiểu và dán nhãn năng lượng cho các sản phẩm tư liệu sản xuất và thiết bị tiêu dùng.
- Trong lĩnh vực nông nghiệp: Đã ban hành Luật Thủy lợi, Luật Thủy sản, Luật Lâm nghiệp và các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn và quy định tiêu chuẩn “xanh” cho sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản đã được ban hành ứng dụng và mang lại hiệu quả thực tế cho sản xuất, kinh doanh.
- Trong lĩnh vực xây dựng: Ngành Xây dựng đã ban hành Kế hoạch hành động giảm nhẹ phát thải khí nhà kính trong sản xuất xi măng đến năm 2020 và định hướng đến 2030; Chương trình nâng cấp đô thị quốc gia giai đoạn 2009 - 2020; Chiến lược quốc gia về quản lý tổng hợp chất thải rắn đến năm 2025 tầm nhìn đến năm 2050; Kế hoạch phát triển đô thị tăng trưởng xanh Việt Nam đến năm 2030; Quy định về chỉ tiêu xây dựng đô thị tăng trưởng xanh...
- Trong lĩnh vực giao thông vận tải: Hưởng ứng Chiến lược tăng trưởng xanh, cùng với các bộ, ngành, Bộ Giao thông vận tải đã ban hành kế hoạch hành động giảm phát thải khí CO2 trong hoạt động hàng không dân dụng Việt Nam giai đoạn 2016 - 2020.
Kế hoạch hành động tăng trưởng xanh
Ngày 20/3/2014, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 403/QĐ-TTg phê duyệt Kế hoạch hành động quốc gia tăng trưởng xanh giai đoạn 2014 - 2020, trong đó, đề ra 4 chủ đề chính gồm: Xây dựng thể chế và kế hoạch tăng trưởng xanh tại địa phương; Giảm cường độ phát thải khí nhà kính và thúc đẩy sử dụng năng lượng sạch, năng lượng tái tạo; Thực hiện xanh hóa sản xuất; Thực hiện xanh hóa lối sống và tiêu dùng bền vững.
Ngày 22/7/2022, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 882/QĐ-TTg phê duyệt Kế hoạch hành động quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021 – 2030, vấn đề giảm phát thải khí nhà kính, xanh hóa sản xuất, xanh hóa lối sống và tiêu dùng bền vững được đặt ra thông qua thực hiện 17 nhóm giải pháp. Các giải pháp này đã tập trung vào truyền thông, nâng cao nhận thức, huy động nguồn lực thực hiện; đào tạo và phát triển nguồn nhân lực; nghiên cứu, triển khai khoa học và công nghệ; nâng cao hiệu suất và hiệu quả sử dụng năng lượng; giảm mức tiêu hao năng lượng trong hoạt động sản xuất, thực hành tiêu dùng bền vững…
Các hoạt động hoàn thiện thể chế và triển khai thực hiện Chiến lược tăng trưởng xanh được thực hiện thông qua việc xây dựng và ban hành kế hoạch hành động tăng trưởng xanh ở các bộ và địa phương. Tính đến hết năm 2018, đã có 7 bộ ban hành Kế hoạch hành động tăng trưởng xanh. Tính đến năm 2023, cả nước có 45 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương xây dựng và thực hiện Kế hoạch hành động tăng trưởng xanh cấp tỉnh, thành phố.
Lợi ích của doanh nghiệp nhỏ và vừa khi tiếp cận với tăng trưởng xanh
Đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng
Theo một báo cáo về xu hướng tiêu dùng năm 2019, phần lớn người tiêu dùng sẵn sàng trả nhiều tiền hơn cho thực phẩm được đóng gói bằng vật liệu thân thiện môi trường, thậm chí thế hệ Millennial đồng ý trả nhiều hơn 10%. Trong khi đó, khảo sát của công ty nghiên cứu thị trường Nielsen chỉ ra, có đến 86% người tiêu dùng Việt Nam sẵn sàng chi trả cao hơn cho sản phẩm đến từ thương hiệu có ảnh hưởng tích cực đến xã hội và môi trường (tỷ lệ trung bình của khu vực Đông Nam Á là 76%). Việc doanh nghiệp cam kết có trách nhiệm với môi trường cũng tác động đến quyết định mua hàng của 62% người tiêu dùng Việt Nam. Nhu cầu về các sản phẩm hoặc dịch vụ thân thiện với môi trường và sinh thái ngày càng tăng và do vậy, thị trường đang phát triển theo hướng mở rộng cả về phạm vi và về cơ hội đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa hoạt động theo hướng xanh và phát triển bền vững.
Đáp ứng tiêu chuẩn xuất khẩu
Việt Nam đã tham gia rất nhiều hiệp định FTA, ở đó các tiêu chuẩn tham gia thị trường rất khắt khe, và đòi hỏi doanh nghiệp phải đáp ứng. Việc đáp ứng được các tiêu chí “xanh” sẽ giúp các doanh nghiệp có cơ hội tiếp cận và mở rộng thị trường. Chẳng hạn, tại thị trường Hàn Quốc, Thương vụ Việt Nam tại Hàn Quốc cho biết, thị trường này hiện có xu hướng tiêu dùng sản phẩm thay thế thịt, bảo vệ môi trường với bao bì đóng gói hạn chế sử dụng nguyên liệu từ nhựa, mô hình quản trị ESG và những quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm, quy định, quy trình kiểm dịch. Do đó, theo Thương vụ Việt Nam tại Hàn Quốc, để sản phẩm xuất khẩu tiêu thụ tốt tại Hàn Quốc thì sản phẩm ngoài cần chất lượng, hương vị còn cần yếu tố bổ trợ như ổn định trong sản xuất, an toàn trong chế biến lưu thông, chữ tín trong cam kết, sản phẩm cần đạt tiêu chuẩn kỹ thuật và đặc biệt là dư lượng thuốc bảo vệ thực vật (hệ thống PLS).
Nâng cao trách nhiệm xã hội doanh nghiệp, tạo ra giá trị thương hiệu
Với các thách thức về môi trường và xã hội ngày càng tăng, việc xây dựng hình ảnh một thương hiệu có trách nhiệm và bền vững trở nên quan trọng với doanh nghiệp hơn bao giờ hết. Việc xây dựng một thương hiệu xanh không những giúp doanh nghiệp tiết kiệm được công sức, thời gian, tiền bạc mà còn mang lại giá trị cho xã hội, chung tay gìn giữ một môi trường xanh cho thế hệ mai sau. Chỉ khi tạo ra được các giá trị cho cộng đồng và bảo vệ môi trường, doanh nghiệp mới tạo ra được thương hiệu – “hiệu được thương” đối với khách hàng.
Thúc đẩy đổi mới công nghệ, hiện đại hóa sản xuất
Để đáp ứng được các tiêu chí tăng trưởng xanh, các doanh nghiệp nhỏ và vừa có cơ hội tìm hiểu, tiếp cận với các công nghệ mới tập trung vào phát triển bền vững, những công nghệ làm giảm lượng khí thải. Ví dụ điển hình nhất về thay đổi công nghệ liên quan đến tăng trưởng xanh là sự phát triển của công nghệ đường ống công nghiệp cho phép loại bỏ vật liệu nguy hiểm khỏi môi trường. Do đó, nguy cơ toàn cầu của các bệnh như ung thư có thể được giảm và các mối đe dọa khác đối với môi trường, chẳng hạn như mực nước biển dâng có thể được kiểm soát.
Đặc biệt khi thay đổi công nghệ, doanh nghiệp cũng có thể thay đổi tập quán kinh doanh tạo ra những cách thức mới thân thiện với môi trường hơn để kiếm lợi nhuận, tiêu biểu như kinh tế số, thị trường điện tử hoặc nền kinh tế tuần hoàn. Ví dụ, 1C Việt Nam đã phát triển phần mềm giúp các tổ chức/doanh nghiệp tiết kiệm năng lượng và tài nguyên như: điện, thời gian và chi phí; tối ưu hóa quy trình giao hàng và logistic; hoạch định chiến lược một cách linh hoạt và hiệu quả; cài đặt quy trình sản xuất, máy móc hoạt động theo lịch trình có sẵn, hạn chế nguyên liệu thô đầu vào, và sản phẩm lỗi…
Được hưởng các ưu đãi tài chính
Các chính sách thuế, phí từng bước được hoàn thiện theo hướng chú trọng khuyến khích đầu tư, sản xuất theo công nghệ sạch, tiết kiệm năng lượng, nâng cao ý thức bảo vệ môi trường và hỗ trợ cho việc thực hiện Chiến lược tăng trưởng xanh của quốc gia. Luật Thuế bảo vệ môi trường được Quốc hội thông qua ngày 15/11/2010, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2012. Chính sách thuế tài nguyên được áp dụng theo Luật Thuế tài nguyên số 45/2009/QH12 ngày 25/11/2009 (có hiệu lực từ ngày 01/7/2010). Các quy định về mức thuế suất đều đảm bảo nguyên tắc “tài nguyên không có khả năng tái tạo” thì áp dụng mức thuế suất cao, “tài nguyên có khả năng tái tạo” thì áp dụng mức thuế suất thấp.
Theo Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp hiện hành, từ ngày 01/01/2014, thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp phổ thông là 22% (20% từ ngày 01/01/2016). Ngoài ra, chính sách thuế thu nhập doanh nghiệp có sự hỗ trợ đối với tăng trưởng xanh: (i) Áp dụng thuế suất 10% đối với thu nhập của doanh nghiệp từ thực hiện hoạt động xã hội hóa trong lĩnh vực môi trường; thu nhập của doanh nghiệp từ trồng, chăm sóc, bảo vệ rừng; (ii) Áp dụng thuế suất 10% trong 15 năm đối với thu nhập của doanh nghiệp từ thực hiện dự án đầu tư mới; sản xuất năng lượng tái tạo, năng lượng sạch; phát triển công nghệ sinh học; bảo vệ môi trường. Đồng thời, doanh nghiệp được miễn thuế tối đa 4 năm, giảm 50% số thuế phải nộp tối đa 9 năm tiếp theo; (iii) Áp dụng thuế suất 20% trong 10 năm (kể từ 01/01/2015 chuyển sang áp dụng thuế suất 17%), miễn thuế thu nhập doanh nghiệp 12 năm, giảm 50% số thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp trong 4 năm tiếp theo đối với thu nhập của doanh nghiệp từ thực hiện dự án đầu tư mới trong lĩnh vực sản xuất sản phẩm tiết kiệm năng lượng.
Chính sách tín dụng xanh được đẩy mạnh thông qua các kênh cho vay hỗ trợ lãi suất đối với hoạt động dự án bảo vệ môi trường, tiết kiệm năng lượng, năng lượng tái tạo và công nghệ sạch (tín dụng đầu tư nhà nước, tín dụng xanh, các chương trình cho vay ưu đãi). Tín dụng ưu đãi qua Quỹ bảo vệ môi trường Việt Nam: Thời hạn cho vay và mức lãi suất tối đa không quá 10 năm 50% mức lãi suất cho vay thương mại (năm 2015, mức lãi suất cho vay là 3,6%/năm). Chính sách ưu đãi tín dụng, hỗ trợ về vốn, đất đai đối với các tổ chức, cá nhân tham gia cung ứng dịch vụ môi trường theo Quyết định số 249/QĐ-TTg ngày 10/02/2010 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Đề án phát triển dịch vụ môi trường đến năm 2020. Chính sách tín dụng đầu tư của Nhà nước thực hiện cho vay ưu đãi đối với các dự án năng lượng sạch, có khả năng tái tạo theo Nghị định số 75/2011/NĐ-CP ngày 30/8/2011 của Chính phủ và chính sách ưu đãi đối với các hoạt động sử dụng nước tiết kiệm, hiệu quả theo Nghị định số 54/2015/NĐ-CP ngày 08/6/2015 của Chính phủ.
3. Một số tiêu chí gắn với tăng trưởng xanh cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa
Một doanh nghiệp được coi là doanh nghiệp xanh nếu cung cấp sản phẩm hoặc dịch vụ xanh và/hoặc có quy trình sản xuất xanh. Các sản phẩm và dịch vụ xanh là những sản phẩm thân thiện với môi trường, sử dụng nguồn lực hiệu quả và giảm thiểu chất thải. Mặt khác, các doanh nghiệp cải tiến quy trình sản xuất để tiêu tốn ít năng lượng và chất liệu, ít lãng phí và phát thải cũng được xem là doanh nghiệp xanh. Ngoài ra, doanh nghiệp xanh còn là doanh nghiệp tạo ra một môi trường làm việc và hệ thống phúc lợi tốt cho người lao động.
4. Thách thức trong thực hiện các tiêu chí gắn với tăng trưởng xanh của các doanh nghiệp nhỏ và vừa
Việc chuyển hướng sang kinh tế xanh và tăng trưởng xanh cần phải phù hợp với định hướng phát triển của đất nước theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm giai đoạn 2021 - 2030, Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021 - 2025. Quan điểm Đại hội XIII của Đảng là phát triển nhanh và bền vững dựa chủ yếu vào khoa học và công nghệ, đổi mới và sáng tạo, chuyển đổi số; phát triển hài hòa giữa kinh tế với văn hóa - xã hội, bảo vệ môi trường và thích ứng với biến đổi khí hậu. Việc thực hiện chiến lược tăng trưởng xanh góp phần đổi mới mô hình tăng trưởng, tăng cường năng lực chống chịu, giảm thiểu tính dễ bị tổn thương của nền kinh tế trước các cú sốc khác nhau, phát huy năng lực, nâng cao tính bình đẳng về khả năng tiếp cận cơ hội và thụ hưởng thành quả của sự phát triển đối với mỗi người dân.
Mặc dù nhà nước, cộng đồng doanh nghiệp đều xác định tăng trưởng xanh là xu thế phát triển tất yếu, tuy nhiên, trong quá trình thực hiện vẫn tồn tại những “rào cản” đối với các doanh nghiệp nhất là doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Thứ nhất, nhận thức về môi trường và tiêu chí xanh hóa của doanh nghiệp nhỏ và vừa của Việt Nam còn hạn chế. Theo một khảo sát của VCCI, chỉ có 31,8% doanh nghiệp tư nhân hiểu rõ các quy định môi trường, 44% doanh nghiệp trong nước và 38% doanh nghiệp FDI thừa nhận chưa tuân thủ đầy đủ các quy định môi trường. Nhiều doanh nghiệp chưa nhận thức được trách nhiệm với môi trường hoặc không có nhân lực am hiểu về pháp luật môi trường, chưa có bộ phận chuyên trách hoặc chưa đưa các tiêu chí xanh vào chiến lược phát triển và quản trị doanh nghiệp.
Thứ hai, tiềm lực tài chính của các doanh nghiệp nhỏ và vừa có hạn. Tính toán của Bộ Kế hoạch và Đầu tư cũng như Ngân hàng thế giới (WB) cho thấy, để thực hiện Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh đến năm 2030, Việt Nam dự kiến cần khoảng 30 tỉ USD. Đối với một doanh nghiệp, để đáp ứng các tiêu chí xanh hóa từ công nghệ sản xuất đến các tiêu chí về xử lý xả thải và đảm bảo tiêu chuẩn môi trường đòi hỏi nguồn chi phí lớn. Đặc biệt, việc chuyển đổi công nghệ, giai đoạn đầu sẽ tạo ra gián đoạn sản xuất kinh doanh, giảm năng suất lao động và doanh thu, đòi hỏi nguồn vốn đầu tư cao, và sự gia tăng chi phí sản xuất để tuân thủ các quy định về giảm nhẹ. Do đó, dù có mong muốn thay đổi theo hướng phát triển bền vững, song nhiều doanh nghiệp nhỏ và vừa vẫn bị hạn chế về công nghệ do thiết bị, máy móc sản xuất đã cũ và thiếu nguồn vốn đầu tư.
Thứ ba, thiếu tính đồng bộ, liên kết trong hệ thống thể chế, khung khổ pháp lý cho tăng trưởng xanh. Mặc dù đã có những văn bản, chiến lược về tăng trưởng xanh, tuy nhiên, vẫn chưa có những quy định, chính sách cụ thể cho khu vực doanh nghiệp nhỏ và vừa; các tiêu chí tăng trưởng xanh còn chung chung chưa có sự phân cấp theo quy mô doanh nghiệp hoặc khu vực sản xuất; việc thực hiện các quy định tăng trưởng xanh chưa đồng bộ tại tất cả các bộ, ngành, địa phương. Việc thực hiện chiến lược tăng trưởng xanh vẫn đang trong tình trạng “mạnh ai nấy làm”, chưa có tính liên kết giữa các ngành, địa phương. Các dự án mà bộ, ngành, địa phương đã và đang được thực hiện liên quan đến Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh đều dựa trên sự hỗ trợ về tài chính và kĩ thuật của các tổ chức quốc tế, các tổ chức phi chính phủ, chưa xuất phát từ năng lực nội sinh của bộ, ngành, địa phương.
5. Giải pháp thúc đẩy thực hiện các tiêu chí gắn với tăng trưởng xanh của các doanh nghiệp nhỏ và vừa
Thứ nhất, hoàn thiện thể chế, khung khổ pháp lí cho tăng trưởng xanh
Tiếp tục hoàn thiện thể chế, khung khổ pháp lí cho toàn bộ các lĩnh vực, đặc biệt là các lĩnh vực chủ chốt, có ảnh hưởng lớn đến quá trình tăng trưởng xanh. Tăng trưởng xanh phải là động lực chính để phát triển bền vững và là công cụ hữu hiệu giúp Chính phủ cân đối nguồn lực trong nước và quốc tế hiệu quả, gắn kết chặt chẽ với các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội bền vững.
Trong nhóm giải pháp về thể chế, chính sách, các bộ, ngành, địa phương cần hoàn thiện khung cơ chế, chính sách, pháp luật theo hướng phối hợp liên vùng, liên ngành và tích hợp các mục tiêu, giải pháp tăng trưởng xanh để thúc đẩy cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, tối ưu hóa nguồn lực, đặc biệt trong xây dựng hạ tầng đa mục tiêu.
Đặc biệt, các doanh nghiệp có vai trò quan trọng trong tăng trưởng xanh bởi doanh nghiệp là lực lượng trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất, thúc đẩy phát triển kinh tế. Do đó, cần có các quy định, tiêu chuẩn thống nhất, đồng bộ cho khối doanh nghiệp; các quy định, tiêu chí cần dựa trên thực tiễn của khối doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Để thúc đẩy các DN liên tục nghiên cứu, cập nhật công nghệ mới giúp giảm thiểu ô nhiễm môi trường, nhà nước cần điều chỉnh quy định, tiêu chuẩn về phát thải (quy định khí thải, nước thải) theo hướng nâng cao hơn và tiệm cận dần với tiêu chuẩn môi trường của các nước phát triển. Tuy nhiên, cần có lộ trình theo từng giai đoạn phát triển của đất nước và địa phương cũng như sự phát triển của doanh nghiệp
Thứ hai, nâng cao nhận thức, đổi mới mô hình tăng trưởng
Các cơ quan quản lý môi trường tại các địa phương cần hướng dẫn, tuyên truyền, đôn đốc, nhắc nhở các doanh nghiệp tăng cường thực hiện thự hiện các quy định pháp luật về bảo vệ môi trường cũng như các biện pháp giảm thiểu ô nhiễm môi trường trong quá trình sản xuất.
Tuyên truyền để các doanh nghiệp tự quản lý môi trường thông qua đánh giá tác động môi trường định kỳ (phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường theo quý); ký quỹ cải tạo phục hồi môi trường
Tuyên truyền, hướng dẫn các doanh nghiệp áp dụng các tiêu chuẩn quản lý môi trường theo ISO 14001 nhằm kiểm soát các rủi ro môi trường có thể xảy ra trong quá trình sản xuất, sử dụng hợp lý tài nguyên và tiết kiệm năng lượng
Thứ ba, tăng kết cơ chế kiểm soát và ưu đãi đối với các doanh nghiệp
Cần tăng cường các chế tài xử lý đối với các DN vi phạm các qui định pháp luật về bảo vệ môi trường thông qua công cụ kinh tế, hành chính và hình sự (tăng mức xử phạt, đình chỉ hoạt động (thậm chí đóng cửa các công ty vi phạm kéo dài), xử lý hình sự đối với DN gây hậu quả nghiêm trọng).
Nâng cao trách nhiệm của các doanh nghiệp thông qua cam kết cắt giảm khí nhà kính. Trong bối cảnh thực hiện Thỏa thuận Khí hậu Paris, Chính phủ cần nâng cao trách nhiệm của DN thông qua các biên bản cam kết cắt giảm phát thải khí nhà kính đối với từng DN. Đây chính là tiền đề để Chính phủ thực hiện cam kết đưa phát thải nhà kính bằng không vào năm 2050. Cam kết cắt giảm khí nhà kính chính là văn bản có tính chất pháp lý mà DN cam kết với cơ quan quản lý nhà nước, nó giống như cam kết thực hiện các biện pháp bảo vệ môi trường của DN.
Có cơ chế khen thưởng, vinh danh các doanh nghiệp thực hiện tốt các tiêu chí tăng trưởng xanh, bền vững. Nhà nước, địa phương cần có cơ chế khen thưởng, vinh danh các DN thực hiện tốt các tiêu chí tăng trưởng xanh thông qua các tổ chức chính trị-xã hội, hội nghề nghiệp như Mặt trận tổ quốc, Hiệp hội DN...
Tiếp tục tăng cường triển khai các chính sách, đặc biệt về thuế và tín dụng để tái cơ cấu nền kinh tế, thay đổi mô hình tăng trưởngtheo hướng khuyến khích đổi mới, cải tiến, nâng cấp công nghệ, đa dạng hóa ngành nghề, phát triển các ngành có giá trị gia tăng cao và tiêu hao năng lượng thấp.
Thứ tư, tập trung vào công nghệ, đổi mới sáng tạo.
Nhà nước hỗ trợ doanh nghiệp đổi mới công nghệ thông qua hình thức hợp tác công-tư. Theo kinh nghiệm từ các nước phát triển, Nhà nước đầu tư nguồn lực cho các dự án nghiên cứu và phát triển công nghệ để hỗ trợ một nhóm ngành hoặc nhóm DN đầu tầu để thúc đẩy các DN chuyển đổi, trong đó các DN là bên được hưởng lợi từ kết quả nghiên cứu và tham gia vào quá trình nghiên cứu hoặc hợp tác theo hình thức công tư (nhà nước đầu tư một phần, DN góp một phần).
Hình thành liên kết 3 bên (Nhà nước – Viện/trường – doanh nghiệp), liên kết giữa các doanh nghiệp để hỗ trợ cho quá trình đổi mới công nghệ. Trong liên kết này, Nhà nước đóng vai trò xây dựng cơ chế, chính sách hoặc hỗ trợ một phần hoặc toàn bộ kinh phí cho hoạt động nghiên cứu và phát triển công nghệ; các Viện nghiên cứu/Trường đại học đóng vai trò là bên tham gia nghiên cứu và phát triển công nghệ, giải pháp (đóng góp nguồn nhân lực, trí tuệ); các DN đóng vai trò: tham gia vào quá trình nghiên cứu và phát triển công nghệ, sử dụng công nghệ và giải pháp được tạo từ quá trình liên kết, thực hiện thương mại hóa kết quả và đầu tư một phần hoặc toàn bộ kinh phí cho quá trình nghiên cứu và phát triển.
Tăng trưởng xanh là nội dung quan trọng của phát triển bền vững và là quá trình phát triển có sự kết hợp chặt chẽ, hợp lí, hài hòa giữa phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ môi trường, đáp ứng nhu cầu của thế hệ hiện tại nhưng không làm ảnh hưởng đến các thế hệ tương lai. Việt Nam là quốc gia chịu tác động nặng nề bởi biến đổi khí hậu, tình trạng ô nhiễm môi trường ngày càng trầm trọng, nền kinh tế ngày càng trở nên dễ bị tổn thương... Do đó, tăng trưởng xanh là con đường tất yếu để đạt các mục tiêu phát triển bền vững.
Các doanh nghiệp là lực lượng trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất, là nhân tố hạt nhân thúc đẩy tăng trưởng xanh, bền vững. Chiếm tỷ trọng lớn trong nền kinh tế, các doanh nghiệp nhỏ và vừa cần xác định rõ những thách thức và cơ hội, bảo đảm tuân thủ các quy định về môi trường, đổi mới công nghệ và nâng cao hiệu quả sản xuất, sắp xếp lại cơ cấu, hạn chế phát triển những ngành kinh tế phát sinh chất thải lớn, gây ô nhiễm, suy thoái môi trường, sử dụng tiết kiệm và hiệu quả tài nguyên; hình thành đội ngũ doanh nhân “xanh” của đất nước./.