22/12/2024 lúc 12:35 (GMT+7)
Breaking News

Thủ đô bền vững trong kỷ nguyên mới

Thủ đô Hà Nội, kể từ “Chiếu dời đô” của Vua Lý Thái Tổ năm 1010 đến nay, đã trải qua và chứng kiến biết bao sự biến thiên của lịch sử. Trong lịch sử hào hùng, Thăng Long - Hà Nội tham gia hơn 10 cuộc chiến tranh chống ngoại xâm và kết thúc trong khúc khải hoàn. Trong đó, Ngày Giải phóng Thủ đô 10/10/1954 là một trong những mốc son rực rỡ.

Không chỉ là mốc son đánh dấu sự thắng lợi của một dân tộc nhỏ bé trước một thế lực thực dân xâm lược hàng đầu thế giới, mà còn mở ra thời kỳ mới của thời đại Hồ Chí Minh trong tiến trình phát triển của Thăng Long - Hà Nội.

Thủ đô đóng vai trò quan trọng trong việc định hình bản sắc chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa của quốc gia. Là nơi nắm giữ quyền lực và ra quyết định, đại diện cho bản sắc của đất nước không chỉ thông qua kiến ​​trúc tượng trưng mà còn thông qua các tiêu chuẩn bền vững của thời đại về kinh tế, xã hội và môi trường cũng như cách định vị mình trong mạng lưới đô thị quốc gia và khu vực.

Theo đánh giá của các chuyên gia, kinh tế - xã hội, Thủ đô Hà Nội trong 70 năm, từ Ngày Giải phóng Thủ đô 10/10/1954 đến nay, luôn phát triển mạnh mẽ, đạt được những thành tựu to lớn và nổi bật. Hà Nội luôn duy trì tăng trưởng khá và đóng góp tích cực vào tăng trưởng cả nước. Ngoài ra, Hà Nội cũng đồng thời tập trung phát triển cả kinh tế và văn hóa, xã hội, trong đó, đã có một chuyên đề về phát triển văn hóa. Hà Nội đã đầu tư, bảo tồn, tôn tạo trên 5.000 di tích lịch sử. Lĩnh vực giáo dục đứng đầu cả nước. Trong đầu tư hạ tầng kết nối vùng Thủ đô, Hà Nội đã triển khai Dự án đầu tư xây dựng đường Vành đai 4 - Vùng Thủ đô và các đường song hành để tăng tính kết nối với các tỉnh, thành phố…

Đặc biệt mới đây, ngày 28/6/2024, Quốc hội đã thông qua Luật Thủ đô (sửa đổi), có hiệu lực từ 1/1/2025 và cho ý kiến về quy hoạch chung xây dựng Thủ đô đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2050, tạo nền tảng cơ bản để thực hiện hiệu quả Nghị quyết số 15-NQ/TƯ của Bộ Chính trị để hướng tới phát triển Thủ đô Hà Nội "Văn hiến - Văn minh - Hiện đại."

Tuy nhiên, trong kỷ nguyên cách mạng công nghệ mới với sự phát triển và cạnh tranh toàn cầu, Thủ đô Hà Nội vẫn đang đứng trước nhiều cơ hội cũng như nhiều thách thức về phát triển bền vững và cần có những cách tiếp cận mới để giữ vững vị thế trong nước và hội nhập quốc tế thành công. Thực tế cho thấy các thành phố đều là những hệ thống quan trọng và phức tạp nhất của chúng ta, thu hút mọi người và tạo ra hơn 80% GDP toàn cầu trong khi chỉ chiếm khoảng 3% diện tích đất của Trái đất. Hơn nữa, các thành phố ngày nay không chỉ là trung tâm kinh tế vì nếu chỉ tập trung vào hiệu quả và phát triển kinh tế thường dẫn đến kết quả không như mong đợi. Thay vào đó, chúng nên được xem là một tập hợp các giá trị, lợi ích đa dạng. Sức hấp dẫn của một thành phố là sản phẩm của các nguồn lực do chính quyền thành phố và hệ sinh thái kinh tế - xã hội - môi trường của thành phố chủ động tạo ra. Do đó, các thành phố hàng đầu thế giới luôn phải thúc đẩy việc tạo vốn, như Ngân hàng Thế giới đã lưu ý: “Một thành phố cạnh tranh là thành phố tạo điều kiện thành công cho các công ty và ngành công nghiệp của mình tạo việc làm, nâng cao năng suất và tăng thu nhập của người dân theo thời gian”. Nguồn vốn của thành phố và sự tương tác giữa các hình thức khác nhau của nó quyết định chất lượng cuộc sống đô thị hiện tại và khả năng sinh sống của thành phố. 

Với cách tiếp cận đô thị như vậy, chúng ta có thể đề xuất 5 giải pháp để Thủ đô phát triển bền vững hơn nữa nhằm phục vụ tốt các nhiệm vụ chính trị - kinh tế-xã hội của đất nước:

1. Cần xác định và tập trung huy động toàn diện 5 nguồn lực của Thủ đô đến từ các nguồn vốn cơ bản:

1.1. Vốn kinh tế

Các thành phố thu thập và phân phối vốn kinh tế, được tạo ra thông qua phí, thuế, tiền thuê đất và các khoản thu khác. Sau đó, vốn này được tái đầu tư để tạo ra thêm vốn kinh tế (ví dụ: đầu tư cơ sở hạ tầng) và hỗ trợ hoặc tăng cường các hình thức vốn khác.

1.2. Vốn tự nhiên:

Mặt nước, đất đai và cây xanh… là những nguồn lực tự nhiên của Thủ đô. Các khoản đầu tư vào vốn tự nhiên, chẳng hạn như công viên, thường tác động trực tiếp đến các hình thức vốn khác, đặc biệt là vốn con người…

“Hà Nội” viết bằng chữ Hán là “河內”, nghĩa là “bao quanh bởi các con sông”, tên gọi này phản ánh vị trí địa lý độc đắc và nên thơ của Hà Nội. Tuy nhiên, các khu vực đô thị nằm ven sông và biển luôn có nguy cơ mực nước dâng cao, bão mạnh và lũ lụt. Điều này có thể thấy qua ảnh hưởng của bão Yagi vừa qua ở các tỉnh Bắc Bộ. Chính vì vậy, cần có sự nghiên cứu và đầu tư mạnh mẽ vào các khu vực sông, hồ của Hà Nội như hồ Tây, sông Hồng và sông Đuống… để phát huy tối đa hiệu quả vốn tự nhiên của Thủ đô.

1.3. Vốn con người: bao gồm các kỹ năng, kiến ​​thức và năng lực sản xuất giúp cá nhân tạo ra thêm vốn, từ lâu đã được công nhận là yếu tố thiết yếu cho sự phát triển của xã hội. Số lượng và chất lượng giáo dục định hình đáng kể vốn con người, đây là động lực cơ bản của sự phát triển kinh tế. Theo thống kê ở Hoa kỳ, kiến thức chung của dân số quốc gia ước tính đạt 240 nghìn tỷ đô la Mỹ, vượt xa giá trị của các yếu tố tăng trưởng kinh tế khác.

1.4. Vốn xã hội: đến từ quy mô và chất lượng của thể chế kinh tế chính trị, môi trường pháp lý, kinh doanh, văn hóa, giáo dục, tổ chức xã hội và gia đình…khi mối liên hệ giữa vốn xã hội và con người rõ ràng là rất mạnh mẽ. Bản chất con người là xã hội, chúng ta đã tiến hóa để trở thành xã hội, đó là đặc điểm xác định ý nghĩa của việc trở thành công dân tử tế. Với dân số gần 8,5 triệu người (2022),  đứng thứ 2 cả nước, Hà Nội có một nguồn lực xã hội và con người vô cùng to lớn nếu như chúng ta quản trị và phát huy tối đa các nguồn lực này. Phát triển tốt vốn xã hội sẽ thúc đẩy uy tín, danh tiếng và thương hiệu của Thủ đô để thu hút đầu tư, di cư của nhân tài và các hình thức vốn khác. 

1.5. Vốn sản phẩm: đây có thể coi là nguồn lực nền tảng và mục đích của nền kinh tế phát triển bền vững, vì sản phẩm - dịch vụ chất lượng là kết tinh của hiệu quả quản trị các nguồn lực. Sản phẩm và dịch vụ được tái đầu tư dưới dạng vốn đầu vào như hàng tiêu dùng, phương tiện sản xuất…sẽ nâng cao giá trị của vốn đầu ra dưới dạng sản phẩm và dịch vụ với giá trị gia tăng cao hơn. Do vậy, cần có chính sách thúc đẩy và phát triển các sản phẩm “made in Vietnam” cốt lõi trong các ngành sản xuất công nghiệp chiến lược quốc gia, để đảm bảo chỗ dựa vững chắc cho nguồn lực đầu vào của các dự án then chốt trong các ngành ưu tiên như nông nghiệp, năng lượng và giao thông hiện đại…cũng như lĩnh vực an ninh quốc phòng đất nước bao gồm cả Thủ đô Hà Nội. Trong đó, Quy hoạch Thủ đô là sản phẩm của quá trình đồng sáng tạo liên tục của một tấm thảm vốn được đan xen và đan lại một cách năng động làm nền tảng phát triển các nguồn lực của Hà Nội.

2. Xây dựng chính quyền là đối tác hiệu quả với hệ thống sinh thái của Thủ đô để chủ động phát triển các nguồn vốn:

Hệ thống là quá trình trao đổi chất của chính quyền và hệ sinh thái các tổ chức địa phương thể hiện hoạt động trao đổi chất tích lũy và tương tác của chúng. Hệ sinh thái là mạng lưới các tổ chức và doanh nghiệp liên kết với nhau, tương tác linh hoạt thông qua cạnh tranh, hợp tác để tăng doanh số và tồn tại. Hệ thống chuyển đổi vốn từ hình thức này sang hình thức khác hoặc nâng cao giá trị của vốn đầu vào. Ví dụ, khai khoáng chuyển đổi vốn tự nhiên thành vốn kinh tế, trong khi giáo dục làm tăng chất lượng vốn con người…Quá trình xây dựng mô hình hệ thống Thủ đô trong bối cảnh toàn cầu hóa không chỉ đòi hỏi kiến thức mà còn cần trí sáng tạo, đổi mới và đột phá trong tư duy của lãnh đạo chính quyền như Einstein đã nói: “Trí tưởng tượng quan trọng hơn kiến thức. Kiến thức là hữu hạn. Trí tưởng tượng là vô cùng và bao quát toàn thế giới.” Là thực thể then chốt của thành phố, vai trò của chính quyền là xây dựng mô hình và hệ thống tạo ra vốn giúp tăng năng suất vốn của các thành viên khác trong hệ sinh thái, giúp nuôi dưỡng những người đổi mới để thúc đẩy sự sáng tạo về phát triển các nguồn lực.

3. Thiết lập khung ngân sách vốn:

Bao gồm hàng loạt các quy trình được sử dụng để xây dựng cơ sở hạ tầng công cộng có giá cao, lâu dài và bao gồm cả các thông tin cho từng dự án vốn: mô tả mục đích của dự án, thứ tự ưu tiên của dự án, ước tính chi phí dự án, xác định nguồn tài trợ, thời gian biểu hoàn thành dự án và kế hoạch toàn diện, tác động kinh tế - xã hội - môi trường của dự án. Khung lập ngân sách vốn cung cấp một công cụ toàn diện để hình dung tác động của các chính sách công.

4. Xây dựng mô hình quản trị Thủ đô: gồm 4 cấp độ quản lý:

4.1. Cấp chiến lược

Trước hết, Hội đồng Nhân dân và Chủ tịch UBND (Thị trưởng) phải xác định các mục tiêu, tầm nhìn chung cho thành phố và cách chúng liên quan đến sự thành công của hệ sinh thái Thủ đô. Cấp quản trị này phải đặt ra một kế hoạch dài hạn cho việc phân chia việc tạo vốn, cách thành phố sẽ đầu tư vào việc tạo vốn để tạo điều kiện cho hệ sinh thái của Thủ đô phát triển các nguồn lực.

4.2. Cấp độ hành động

Mục đích của cấp độ  quản trị này là chuyển đổi tầm nhìn của thành phố thành một tập hợp vốn đáp ứng các mục tiêu chiến lược của thành phố. Nó biến các mục tiêu thành các kế hoạch cụ thể bằng cách phát triển quan hệ đối tác với các thành viên chủ chốt của hệ sinh thái Thủ đô để xây dựng cơ sở hạ tầng cứng và mềm. Cấp độ hành động này phải do Chù tịch UBND (Thị trưởng) đứng đầu.

4.3. Cấp độ phân tích và hệ thống hóa 

Mức thứ ba của quản trị Thủ đô là phân tích và hệ thống hóa với hai nhiệm vụ chính. Đầu tiên, nó hỗ trợ việc ra quyết định của hai cấp độ trên bằng cách báo cáo về tình trạng hiện tại, dự kiến tương lai ​​của thành phố nhằm mục đích tạo kho dữ liệu của thành phố bằng cách thiết lập các tiêu chuẩn dữ liệu, quy trình tạo, duy trì và truy cập dữ liệu. Nó tăng cường năng lực tạo vốn của thành phố bằng cách nuôi dưỡng việc chuyển đổi dữ liệu thành thông tin. Thứ hai, cấp độ này xác định, thiết kế, phát triển và duy trì các hệ thống để ra quyết định. Có thể Giám đốc công nghệ thông tin (CIO) hoặc Kiến trúc sư trưởng Thủ đô sẽ quản lý cấp này.

4.4. Cấp độ quản trị hiệu suất liên tục

Cấp độ quản trị này phải đảm bảo hoạt động liên tục 24/7 của các dịch vụ cốt lõi của Thủ đô, đặc biệt là trong thời điểm khủng khoảng và cấp thiết. Các công nghệ thông tin được triển khai ở cấp độ này sẽ bao gồm cảm biến tự động, đo lường từ xa, IoT, cơ sở dữ liệu và mạng lưới truyền thông. Cấp độ quản trị hiệu suất liên tục có thể được quản lý bởi một Tổng giám đốc điều hành (COO) của Thủ đô.

5. Định vị Thủ đô trong mạng lưới đô thị quốc gia và khu vực

Hà Nội cần định vị trong mối quan hệ không gian với các tỉnh, thành phố cả nước nói chung và ở khu vực tam giác tăng trưởng phía Bắc nói riêng, đặc biệt là kết nối cửa ngõ thông thương ra biển Đông với cụm cảng Lạch Huyện (Hải Phòng) lớn nhất cả nước. Ngoài ra, cần có quan hệ đối tác chiến lược trọng điểm với các trung tâm kinh tế, Thủ đô của 7 nước phát triển có quan hệ đối tác chiến lược toàn diện với Việt Nam trong khu vực và thế giới.

Thực hiện tốt các giải pháp trên, chắc chắn chúng ta sẽ góp phần xây dựng được Thủ đô Hà Nội xứng đáng với niềm tin vào một đất nước có vị thế cạnh tranh mạnh mẽ và phát triển bền vững ở khu vực cũng như thế giới trong nửa đầu của kỷ nguyên công nghệ mới.

TS Đoàn Duy Khương 

...