Tóm tắt: Thương mại điện tử là một lĩnh vực quan trọng được các bên thỏa thuận dành nhiều ưu đãi trong Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP). Trong bài viết này, tác giả phân tích những quy định về thương mại điện tử trong RCEP; đánh giá các tác động của RCEP đến thương mại điện tử của Việt Nam; và đề xuất một số giải pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật để vừa phát triển thương mại điện tử theo quy định của RCEP, vừa bảo vệ được các doanh nghiệp trong nước trước bối cảnh mở cửa cho các đối tác nước ngoài.
Từ khóa: RCEP, thương mại điện tử, Hiệp định thương mại tự do.
Abstract: E-commerce is an important channels that the parties agree to adopt preferences in the Regional Comprehensive Economic Partnership (RCEP). Within this article, the author provides an analysis of the regulations on e-commerce in RCEP; assessments of the impacts of RCEP on Vietnam's e-commerce; and also proposes a number of recommendations to improve the legal system so that it is to both develop e-commerce in accordance with the commitments of RCEP and protect the domestic enterprises under the context of opening up to foreign partners.
Keywords: RCEP; e-commerce; free trade agreement.
Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện khu vực (Regional Comprehensive Economic Partnership - RCEP) được ký kết[1] giữa các quốc gia ASEAN cùng 5 đối tác đã có Hiệp định thương mại tự do (FTA) với ASEAN, gồm: Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Úc và New Zealand. RCEP đặt ra những quy định về thương mại hàng hóa, thương mại dịch vụ, đầu tư, sở hữu trí tuệ, cạnh tranh, thương mại điện tử và nhiều lĩnh vực khác có liên quan. Đây là một trong những hiệp định rất quan trọng, đánh dấu bước phát triển mới của các quốc gia trong ASEAN cùng sự hợp tác liên kết với các đối tác trên thế giới.
1. Tác động của RCEP đến ngành thương mại điện tử Việt Nam
1.1. Tác động tích cực
Thứ nhất, mở rộng thị trường tham gia vào chuỗi cung ứng hàng hóa, dịch vụ.Chương 12 RCEP về thương mại điện tử đã có những cải tiến “trong các lĩnh vực như giao dịch không cần giấy tờ, truyền dữ liệu sẽ mở ra một thế giới ảo mới, thúc đẩy môi trường kinh doanh trực tuyến thuận tiện hơn, cải thiện môi trường thương mại điện tử, giải phóng các trang web, truyền dữ liệu”[2], từ đó giúp doanh nghiệp của các quốc gia có cơ hội kết nối dễ dàng hơn. Trước Hiệp định RCEP, Việt Nam đã ký Hiệp định khung về hợp tác kinh tế toàn diện ASEAN – Trung Quốc (ACFTA), Hiệp định Thương mại tự do ASEAN –Úc- New Zealand (AZZNFTA), và Hiệp định Đối tác kinh tế Việt Nam – Nhật Bản (VJEPA). Song tại ACFTA, AZZNFTA và VJEPA các bên chưa tiến hành đàm phán, thỏa thuận để có được các cam kết về thương mại điện tử. Do đó, RCEP chính là cầu nối để các bên đạt được các thỏa thuận mở cửa thị trường thương mại điện tử, tạo điều kiện cho Việt Nam có cơ hội tham gia nhiều hơn vào thị trường Trung Quốc, Nhật Bản, Úc cũng như New Zealand, vốn là những thị trường mà trước đó Việt Nam chỉ tập trung vào lĩnh vực thương mại hàng hóa.
Thứ hai, RCEP chính là cơ hội cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể tham gia hội nhập và phát triển kinh doanh.Lần đầu tiên trong một Hiệp định thương mại tự do đa phương đã hình thành riêng một chương để quy định về các chính sách hỗ trợ và đảm bảo quyền lợi cho nhóm đối tượng này (Chương 14 Hiệp định RCEP). Tại Chương 12 về thương mại điện tử, các quốc gia đồng thuận “cùng hành động hướng đến việc trợ giúp cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ vượt qua những trở ngại trong việc sử dụng thương mại điện tử”[3]. Nhóm doanh nghiệp vừa và nhỏ sẽ được hưởng lợi từ RCEP thông qua các cơ hội hỗ trợ, định hướng từ các quốc gia và doanh nghiệp lớn hơn trong khu vực, nhờ đó có thể bước những nấc thang cao hơn trong chuỗi cung ứng. Thương mại điện tử và các dịch vụ kỹ thuật số sẽ mở ra cơ hội cho doanh nghiệp vừa và nhỏ quảng bá sản phẩm, tiếp cận với khách hàng mới trên toàn cầu.
Thứ ba, tiếp nhận chuyển giao khoa học, công nghệ và kinh nghiệm quản lý từ các quốc gia khác.Tại Điều 12.4 của Chương 12, các quốc gia đã thống nhất hỗ trợ, tạo mọi điều kiện tốt nhất để giúp đỡ lẫn nhau về mọi khía cạnh trong hoạt động thương mại điện tử. Đây chính là cơ hội cho Việt Nam tiếp thu khoa học, công nghệ tiên tiến, đặc biệt là từ các quốc gia có ngành thương mại điện tử phát triển, nằm ngoài phạm vi ASEAN như Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, Úc[4]. Không những thế, Việt Nam sẽ nhận được nhiều sự hỗ trợ cả về phương thức vận hành và kinh nghiệm quản lý từ những công ty lớn tại các quốc gia đã có kinh nghiệm lâu năm trong lĩnh vực thương mại điện tử thuộc khuôn khổ RCEP.
Thứ tư, thúc đẩy và thu hút đầu tư từ nước ngoài.Trước đây, hoạt động thương mại điện tử tại Việt Nam vốn chịu sự điều chỉnh từ các quy định của WTO và CPTPP song tại cả hai biểu cam kết dịch vụ của WTO và CPTPP đều không đưa ra bất kỳ hạn chế nào cho các nhà đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực này. Đến nay, theo các quy định tại Chương 12 của RCEP, hoạt động thương mại điện tử qua biên giới sẽ tiếp tục được thúc đẩy dựa trên một số quy định mang tính mở cửa thị trường sâu rộng hơn, tăng cường hợp tác quốc tế như: Không yêu cầu nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài phải sử dụng hoặc đặt máy chủ thiết bị lưu trữ dữ liệu trên lãnh thổ nước sở tại như là điều kiện để thực hiện kinh doanh trên lãnh thổ nước mình, trừ khi nhằm thực hiện chính sách công hoặc để bảo vệ các lợi ích an ninh thiết yếu; không áp dụng thuế đối với việc truyền dữ liệu điện tử xuyên biên giới[5]; không ngăn cản việc chuyển các dữ liệu điện tử qua biên giới nếu là để thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh giữa các nước RCEP[6].
Bên cạnh đó, Việt Nam vẫn được xem như một thị trường tiềm năng bởi kết cấu dân số trẻ - những đối tượng khách hàng chính từ của các giao dịch thương mại điện tử; lực lượng lao động trẻ, năng động và thích nghi nhanh với các xu hướng phát triển của nền kinh tế, khoa học kỹ thuật, sẽ góp phần thu hút các nhà đầu tư nước ngoài vào thị trường Việt Nam.
1.2. Thách thức
Thứ nhất, áp lực cạnh tranh từ các đối thủ nước ngoài.Các doanh nghiệp trong nước sẽ chịu nhiều áp lực cạnh tranh trên các khía cạnh như: Trình độ công nghệ còn hạn chế, hệ thống máy móc, mạng viễn thông chưa thể bắt kịp với các đối thủ trong khu vực; cơ chế quản lý vận hành, quy trình kinh doanh có thể chưa kịp đổi mới, thích ứng với lĩnh vực thương mại điện tử; mạng lưới phân phối của các doanh nghiệp Việt Nam có phần nhỏ hơn các doanh nghiệp nước ngoài bởi họ có tệp khách hàng và mạng lưới phân phối đã được thiết lập sẵn. Thêm vào đó, nhiều doanh nghiệp nước ngoài có thế mạnh tài chính vững chắc hơn, dễ dàng thực hiện chính sách cạnh tranh trong phân phối và bán hàng…
Thứ hai, RCEP tạo ra áp lực cho chính cơ quan quản lý nhà nước trong xây dựng hành lang pháp lý và chính sách.Hiện nay, để điều chỉnh các quan hệ xã hội trong lĩnh vực thương mại điện tử, Việt Nam mới chỉ có Luật Giao dịch điện tử năm 2005. Nhằm cụ thể hóa Luật Giao dịch điện tử, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 57/2006/NĐ-CP về thương mại điện tử, sau đó là Nghị định số 52/2013/NĐ-CP ngày 16/5/2013 của Chính phủ đã được ban hành thay thế Nghị định 57/2006/NĐ-CP. Ngày 25/09/2021, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 85/2021/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 52/2013/NĐ-CP.
Việc điều chỉnh các quan hệ xã hội thuộc lĩnh vực thương mại điện tử được ghi nhận trong nhiều văn bản khác nhau, như Luật Thương mại, Luật Sở hữu trí tuệ, Luật Quản lý thuế, Luật Cạnh tranh, Luật Đầu tư; thậm chí được quy định trong cả một số biểu cam kết dịch vụ của Việt Nam khi tham gia vào WTO hay các FTA như EVFTA, CPTPP. Tuy nhiên, các văn bản này đều được xây dựng khá lâu, thiếu sự nhất quán hoặc văn bản này lại dẫn chiếu đến văn bản khác, gây nhiều khó khăn cho chính nhà đầu tư trong nước khi tìm hiểu về các quy định liên quan, đặc biệt sẽ là trở ngại cho nhà đầu tư nước ngoài.
Thứ ba, áp lực cho các doanh nghiệp Việt Nam còn hạn chế về năng lực.Khả năng đón nhận công nghệ mới của doanh nghiệp nội địa còn thấp, trình độ lao động còn hạn chế, ít đầu tư cho R&D hoặc chưa dám thay đổi cách thức vận hành; chưa tìm hiểu sâu về các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới cũng như các chính sách ưu đãi trong đó, nhất là với lĩnh vực mới xuất hiện trong các cam kết gần đây, như thương mại điện tử. Khảo sát PCI 2021 cho thấy khoảng 49% doanh nghiệp đã từng gặp vướng mắc trong quá trình thực hiện các văn bản pháp luật liên quan đến thực thi các FTA[7].
2. Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của thương mại điện tử thông qua RCEP
Thứ nhất, hoàn thiện các văn bản luật và văn bản hướng dẫn thi hành liên quan đến Luật Giao dịch điện tử, Nghị định về thương mại điện tử (TMĐT).Luật Giao dịch điện tử được ban hành từ năm 2005, tới nay đã có thêm rất nhiều hình thức giao dịch điện tử mới. Vì vậy, cần mở rộng phạm vi điều chỉnh của Luật Giao dịch điện tử và Nghị định về TMĐT thông qua những quy định cụ thể hơn về việc giao kết hợp đồng điện tử, điều chỉnh hoạt động của các website cung cấp dịch vụ bán hàng trực tuyến, các sàn TMĐT, quảng cáo trực tuyến, đấu giá trực tuyến. Trong đó, xác định phạm vi áp dụng luật bao gồm cả những công ty nước ngoài hoạt động trong lĩnh vực TMĐT tại Việt Nam trong trường hợp có đặt máy chủ và không đặt máy chủ tại Việt Nam.
Cần bổ sung chế tài xử lý các vấn đề liên quan đến kinh doanh hàng giả, hàng nhái hoặc các hành vi vi phạm pháp luật về TMĐT thông qua Nghị định Xử phạt hành chính trong lĩnh vực TMĐT. Đây là một trong những cam kết củaViệt Nam tại Điều 12.7 của Chương 12 RCEP về việc: (i) Ban hành hoặc duy trì các quy định của pháp luật để bảo vệ người tiêu dùng nhằm ngăn chặn các hành vi gian lận và lừa đảo thương mại; (ii) Thừa nhận tầm quan trọng của hợp tác giữa các cơ quan quản lý có thẩm quyền trong lĩnh vực bảo vệ người tiêu dùng về các hoạt động liên quan đến TMĐT. Hiện nay, Việt Nam có Nghị định số 98/2020/NĐ-CP ngày 26/08/2020 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động thương mại, sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, nhưng chưa mang tính đặc thù cho các loại hàng hóa được phân phối trên các trang TMĐT. Vì vậy, cần xây dựng Nghị định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực TMĐT, trong đó nêu ra các hành vi được xem là có tính chất lừa đảo người tiêu dùng thông qua TMĐT, các hình thức kinh doanh trái phép trên sàn TMĐT, cũng như đưa ra các mức phạt nghiêm khắc hơn với các hành vi vi phạm của các nhà cung cấp trong nước và cả nhà cung cấp nước ngoài.
Trong quá trình sửa đổi các quy định của pháp luật, cần quy định chi tiết, rõ ràng về việc phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong quản lý đối với hoạt động TMĐT. Hiện nay, trong Nghị định số 52/2013/NĐ-CP và Thông tư số 47/2014/TT-BTC của Bộ Công thương đã đưa ra quy định về việc quản lý các website TMĐT. Tuy nhiên, cả hai văn bản đều chưa có quy định về việc tổ chức, cá nhân bán hàng, cung cấp dịch vụ trên mạng báo cáo hay cung cấp thông tin với Bộ Công thương hoặc các cơ quan quản lý tại địa phương. Đồng thời, chưa có văn bản quy định cơ chế chia sẻ thông tin giữa các các bộ, ban, ngành liên quan, tạo ra nhiều lỗ hổng cho các bên lách luật, trốn thuế. Như vậy, việc xây dưng các quy định của pháp luật điều chỉnh mối quan hệ, vai trò và trách nhiệm phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc quản lý các doanh nghiệp, cá nhân hoạt động TMĐT trên mạng xã hội là cần thiết. Trong đó xác định chi tiết nhiệm vụ của Bộ Công thương và cơ quan quản lý tại địa phương trong việc quản lý website TMĐT; xác định nhiệm vụ của cơ quan quản lý thuế trong việc xác định các loại thuế và mức đóng thuế đối với các hoạt động kinh doanh trực tuyến; quy trình trao đổi thông tin giữa các bên để kiểm soát hoạt động thu thuế.
Thứ hai, hoàn thiện quy định của pháp luật ở các lĩnh vực liên quan đến TMĐT. Bên cạnh pháp luật về giao dịch điện tử, các lĩnh vực liên quan đến hoạt động TMĐT cũng cần có sự sửa đổi, bổ sung sao cho phù hợp.
Đầu tiên, hoàn thiện các quy định trong lĩnh vực thuế và ngân hàng. Theo Luật Quản lý thuế năm 2019, các doanh nghiệp thực hiện cung cấp những dịch vụ liên quan đến các nền tảng số qua Internet, mạng viễn thông bắt buộc phải kê khai nộp thuế[8]. Tuy nhiên, hiện nay có nhiều tổ chức/cá nhân ở nước ngoài cung cấp dịch vụ vào Việt Nam thông qua nền tảng số nhưng không có bất kỳ văn phòng đại diện nào. Vì vậy, cơ quan thuế gặp nhiều khó khăn trong việc thu hồi số tiền thất thoát từ những tổ chức/cá nhân kinh doanh trực tuyến trên mạng xã hội như Facebook, Instagram,… hoặc số tiền mà các trang mạng xã hội nhận được khi thực hiện các hoạt động quảng cáo tại Việt Nam. RCEP không áp thuế đối với việc truyền dữ liệu xuyên biên giới song không có nghĩa là không áp thuế với các hoạt động giao dịch hàng hóa. Ngày 19/10/2020, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 126/2020/NĐ-CP hướng dẫn Luật Quản lý thuế, quy định trách nhiệm của Ngân hàng Nhà nước trong việc cung cấp thông tin và chỉ đạo, hướng dẫn các ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng trong việc phối hợp với cơ quan thuế để cưỡng chế thuế, giám sát giao dịch thanh toán xuyên biên giới, thực hiện khấu trừ, nộp thay nghĩa vụ thuế đối với các nhà cung cấp nước ngoài, song tất cả vẫn đang dừng ở nguyên tắc, chưa có cơ chế hay hướng dẫn thực hiện. Vì vậy, trong quy định về thuế cần có sự phối hợp với Ngân hàng Nhà nước để ban hành văn bản hướng dẫn các ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng, tổ chức cung ứng dịch vụ là trung gian thanh toán cung cấp thông tin để cơ quan nhà nước thực hiện các biện pháp cưỡng chế thuế, thực hiện khấu trừ và nộp thay nghĩa vụ thuế đối với nhà cung cấp nước ngoài khi phát hiện giao dịch thanh toán xuyên biên giới giữa nhà cung cấp nước ngoài với người mua hàng hóa, dịch vụ Việt Nam.
Tiếp theo, hoàn thiện quy định của pháp luật sở hữu trí tuệ về quyền tác giả, bảo vệ sở hữu công nghiệp, tên miền và quảng cáo. Trong TMĐT, hiện nay các quy định về bảo vệ quyền tác giả được quy định chung trong Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 và nhiều văn bản chuyên ngành khác, như Luật Công nghệ thông tin năm 2006, Luật Giao dịch điện tử năm 2005 và các văn bản về TMĐT. Điều này dẫn đến thực trạng là rất khó tra cứu và áp dụng thống nhất các quy định của pháp luật, đa phần các văn bản đều được xây dựng từ cách đây nhiều năm, chưa dự liệu được đầy đủ về các tình huống phát sinh trong bối cảnh hiện nay. Do đó, cần thiết ban hành các quy định riêng, độc lập, thống nhất về bảo hộ quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp, cách thức đăng ký và bảo hộ tên miền, các hình thức quảng cáo tránh xâm phạm sở hữu trí tuệ trong một văn bản cụ thể và Nghị định xử lý vi phạm với các hành vi xâm phạm sở hữu trí tuệ trong hoạt động TMĐT.
Đồng thời, các cơ quan nhà nước cần hoàn thiện quy định của pháp luật liên quan đến vấn đề bảo vệ thông tin người dùng và an ninh mạng. Đây cũng chính là hai nội dung quan trọng được thỏa thuận và đưa đến cam kết trong khuôn khổ RCEP. Theo RCEP, các quốc gia cần thực hiện bảo vệ thông tin cá nhân trên mạng[9]; ban hành thực thi các quy định chống tin nhắn rác[10]. Vì vậy, cần bổ sung hoàn thiện các cơ chế bảo vệ thông tin người dùng vì hiện nay chưa có một đạo luật riêng về vấn đề bảo vệ thông tin cá nhân. Trước đó, vấn đề này đã được ghi nhận tại một số văn bản pháp luật khác như: Bộ luật Dân sự năm 2015 (Điều 32, 38); Luật Giao dịch điện tử năm 2005, Luật Công nghệ thông tin năm 2006 (Điều 21, 22, 67, 72), Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010 (Điều 6), Luật An toàn thông tin mạng năm 2018 (Mục 2 Chương 2), Nghị định số 52/2013/NĐ-CP. Tuy nhiên, các nội dung vẫn mang tính chất khái quát, vì chủ yếu nhằm mục đích bảo vệ thông tin cá nhân nói chung, chưa có các điều khoản cụ thể liên quan đến việc lộ bí mật, thông tin cá nhân từ giao dịch TMĐT hoặc do việc đăng ký tại các phần mềm hoặc ứng dụng di động về TMĐT. Do đó, cần xây dựng các quy định chỉ rõ các hành vi được xem là xâm phạm đến thông tin người dùng, sử dụng trái phép thông tin của người khác, các hành vi gây ức chế cả về tâm lý (ví dụ như tin nhắn rác) và đưa ra các hình thức xử lý phù hợp.
Cuối cùng, hoàn thiện các quy định về tố tụng và các cơ chế giải quyết tranh chấp. Tranh chấp phát sinh từ các hoạt động TMĐT nên được định hướng để giải quyết theo phương thức hòa giải hoặc trọng tài thương mại trong môi trường pháp lý công bằng, thuận lợi. Các cơ quan xây dựng luật cần quy định rõ về các điều kiện để thông điệp dữ liệu được coi là chứng cứ, cách thức thu thập và bảo quản, đánh giá chứng cứ điện tử vì hoạt động điều tra, truy tố, xét xử các tội phạm liên quan đến lĩnh vực TMĐT bắt buộc phải dựa trên các chứng cứ điện tử, nếu không thì việc xét xử là không thể thực hiện được.
Thứ ba, bổ sung các quy định về nhãn tín nhiệm như một điều kiện kinh doanh TMĐT.Việc gắn nhãn tín nhiệm này đã được thực hiện tại nhiều quốc gia trong khuôn khổ RCEP cũng như các quốc gia trên thế giới. Tại các quốc gia có trình độ phát triển cao như Hoa Kỳ, Nhật Bản, Singapore, v.v.. các tổ chức cấp chứng nhận website TMĐT uy tín thường là các tổ chức tư nhân, như Truste của Hoa Kỳ, TradeSafe của Nhật Bản, TrustSg của Singapore. Trong khi đó, tại các nước có hoạt động TMĐT đang phát triển, việc cấp chứng nhận website TMĐT uy tín hoặc của các Hiệp hội đảm nhận, điển hình là DBD của Thái Lan, AMIPCI (Mexican Internet Association) của Mexico[11]. Tại Việt Nam, Hiệp hội TMĐT Việt Nam (VECOM) đã phối hợp với trung tâm phát triển TMĐT thuộc Cục TMĐT và Công nghệ thông tin xây dựng hệ thống tiêu chuẩn trong giao dịch TMĐT với tên Safeweb. Chính phủ có thể tham khảo kết hợp cùng với các Bộ, Ban, ngành liên quan để xây dựng một nhãn tín nhiệm mới cho các doanh nghiệp TMĐT hoạt động tại Việt Nam, hoặc sử dụng lại chính Safeweb, lấy đây là một điều kiện tiên quyết để các website, ứng dụng di động cung cấp các dịch vụ, hàng hóa được phép hoạt động.
Thứ tư, tăng cường vai trò lập pháp, quản lý, giám sát của cơ quan nhà nước. Thực hiện giải pháp cũng đồng thời hiện thực hóa cho cam kết của Việt Nam tại RCEP trong Điều 12.10 về việc: (i) Mỗi Bên sẽ thông qua hoặc duy trì một khuôn khổ pháp lý điều chỉnh các giao dịch điện tử; (ii) Mỗi Bên sẽ nỗ lực tránh các cơ chế quản lý không cần thiết làm ảnh hưởng đến các giao dịch điện tử. Như vậy, cần rà soát tổng thể các văn bản pháp luật liên quan đến lĩnh vực TMĐT, từ đó sửa đổi, bổ sung các điều khoản chưa hợp lý để tạo sự thống nhất, đồng bộ trong các quy định về TMĐT. Cần thành lập nhóm nghiên cứu bao gồm các nhà khoa học, các nhà hoạt động thực tiễn, các chuyên gia pháp lý về các lĩnh vực có liên quan đến TMĐT để đưa ra các quy định bảo đảm tính đồng bộ và thống nhất trong hệ thống pháp luật.
Trong công tác giám sát chú trọng quản lý, kiểm tra trong các hoạt động TMĐT, giao dịch thanh toán, đặc biệt là các giao dịch thanh toán xuyên biên giới nhằm phát hiện và ngăn chặn kịp thời các hành vi vi phạm trong môi trường TMĐT. Thông qua những chiến dịch kiểm tra, thanh tra, những hành vi xâm phạm đã được đẩy lùi một bước, nhưng nếu không làm thường xuyên, không đồng bộ thì không hiệu quả.
Thứ năm, tham gia tích cực hội nhập khu vực và quốc tế, kết nối thông qua hiệp định song phương/đa phương với điều khoản thúc đẩy tự do hóa TMĐT.Các quốc gia trong khuôn khổ RCEP đã quy định ngay trong chính văn kiện RCEP về việc: Tham gia tích cực vào các diễn đàn khu vực và quốc tế để thúc đẩy phát triển TMĐT[12].Tăng cường kết nối thông qua các hiệp định đa phương và song phương cũng đồng thời giúp cho Việt Nam có cơ hội nhận được nhiều sự ưu đãi với các chính sách mở cửa thị trường từ các quốc gia, các vùng lãnh thổ khác nhau.
Thứ sáu, bồi dưỡng, nâng cao trình độ, kinh nghiệm cho các cán bộ quản lý và các chuyên viên phụ trách trong lĩnh vực TMĐT.Có thể thấy đây là lĩnh vực còn mới, mang tính chuyên sâu và liên quan tới nhiều các vấn đề khác như chính sách thuế, quy định về cạnh tranh, sở hữu trí tuệ, kỹ thuật công nghệ, thương mại, nên cần thường xuyên thực hiện đào tạo và nâng cao trình độ cho các cán bộ, công chức ở từng lĩnh vực gắn với TMĐT; không gộp chung cho một cơ quan hay một cán bộ quản lý tất cả các phương diện.
Thứ bảy, tăng cường ý thức thực hiện pháp luật của các cá nhân/tổ chức tham gia vào hoạt động TMĐT.Việt Nam tham gia đàm phán và ký kết ngày càng nhiều vào các hiệp định thương mại tự do chính là đem lại lợi ích cho các doanh nghiệp về những chính sách ưu đãi, cơ hội cho các doanh nghiệp được tiếp cận với thị trường nước ngoài một cách dễ dàng hơn thông qua các cơ chế mở cửa và tạo cơ sở tiếp nhận sự hỗ trợ về tài chính, công nghệ từ các quốc gia khác, cũng như các doanh nghiệp nước ngoài. Song để các tổ chức/cá nhân có được hiểu biết chi tiết nhất, cơ quan nhà nước cũng cần tăng cường phổ biến thông tin, kiến thức về các FTA thế hệ mới nói chung và RCEP nói riêng đến với cộng đồng, đặc biệt là các cá nhân/doanh nghiệp thực hiện các hoạt động kinh doanh có liên quan đến TMĐT. Theo đó, cần vận hành hài hòa cổng thông tin chính sách thương mại theo cam kết trong các FTA mà Việt Nam là thành viên, xây dựng trang thông tin riêng về TMĐT cung cấp chi tiết các chính sách pháp luật trong nước và các cam kết quốc tế của Việt Nam.
Hiện nay, các quy định của pháp luật về TMĐT và thực hiện các giao dịch điện tử còn nhiều lỗ hổng, nên có không ít những trường hợp các doanh nghiệp, cá nhân dựa vào các lỗ hổng ấy để thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật như trốn thuế, cạnh tranh không lành mạnh. Vì vậy, chính các chủ thể tham gia kinh doanh liên quan đến lĩnh vực TMĐT và người tiêu dùng cần nâng cao ý thức chấp hành pháp luật, trong đó bao gồm các quy định của pháp luật trong nước và cam kết tại các điều ước quốc tế.
Việc triển khai xây dựng các văn bản pháp luật để nội luật hóa RCEP và quy định chi tiết hơn về lĩnh vực TMĐT, giao dịch điện tử đã và đang được các cơ quan nhà nước có thẩm quyền tại Việt Nam xây dựng. Chúng ta có thể đặt niềm tin vào sự phát triển nhanh chóng và bền vững của ngành TMĐT nói riêng, và toàn bộ nền kinh tế Việt Nam nói chung. Theo đó, ngành TMĐT Việt Nam sẽ từng bước bắt nhịp được với các quốc gia phát triển trong khuôn khổ RCEP./.
Nguyễn Minh Trang
Công ty Luật TNHH Duy Ích
[1] RCEP được ký kết vào ngày 15/11/2020 và chính thức có hiệu lực từ ngày 01/01/2022.
[2] Quốc Đạt (2022), Nhìn lại hàm ý của RCEP đối với Thương mại điện tử, Báo điện tử Đại biểu Nhân dân, Hà Nội, https://daibieunhandan.vn/viet-nam-va-the-gioi/nhin-lai-ham-y-cua-rcep-doi-voi-thuong-mai-dien-tu-i288365/?fbclid=IwAR0ddCIHvXSuEUEDswqcA_0Udj3a8apOIaLfGnSxKjjt6zkXXXKuAn5jyuU, truy cập ngày 25/05/2022.
[3] Khoản 1 Điều 12.4.
[4] Đinh Thu Hà (2016), Tác động của Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP) đối với ngành công nghiệp điện tử Việt Nam, Luận văn thạc sĩ Luật Kinh tế quốc tế, Trường Đại học Kinh tế - Đại học Quốc gia Hà Nội.
[5] Khoản 1 Điều 12.11.
[6] Khoản 2 Điều 12.15.
[7] Báo cáo chỉ số Năng lực cạnh tranh cấp tỉnh của Việt Nam PCI 2021, https://pcivietnam.vn/uploads//VN-Bao-cao-dai-PCI/Bao-cao-PCI-2021.pdf.
[8] Xem thêm khoản 3 Điều 27 và khoản 4 Điều 42.
[9] Xem thêm Điều 12.8.
[10] Xem thêm Điều 12.9.
[11] Nguyễn Hồng Quân (2011), Gắn nhãn tín nhiệm websie – công cụ khẳng định uy tín của doanh nghiệp trên môi trường kinh doanh trực tuyến, Tạp chí Kinh tế Đối ngoại, số 47, tr.77- 87.
[12] Xem thêm Khoản 1 Điều 12.4.