Thủ tướng Phạm Minh Chính đánh giá cao ý kiến phát biểu của các đại biểu dự họp rất tâm huyết, trách nhiệm; đã phân tích, đánh giá sâu sắc về thực trạng tình hình và nguyên nhân, đề xuất những nhiệm vụ, giải pháp phát triển thị trường khoa học công nghệ (KHCN). Thủ tướng giao Bộ KH&CN chủ trì, phối hợp với VPCP và các cơ quan liên quan tiếp thu nghiêm túc các ý kiến, sớm hoàn thiện và trình ban hành văn bản chỉ đạo phù hợp về một số định hướng, giải pháp và nhiệm vụ trọng tâm phát triển thị trường KHCN.
Phát triển thị trường của các sản phẩm đặc biệt
Thủ tướng nhắc lại phát biểu của Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Chủ nghĩa xã hội cộng với khoa học, chắc chắn sẽ đưa loài người đến hạnh phúc vô tận...", "Cách mạng xã hội chủ nghĩa gắn liền với sự phát triển khoa học và kỹ thuật, với sự phát triển văn hoá của nhân dân".
Các đại biểu cho rằng KHCN cần hiểu theo nghĩa rộng, gồm ý tưởng, quản lý và sản phẩm KHCN, từ đó có tư duy, phương pháp luận, cách tiếp cận và chính sách phù hợp với thị trường này, vừa có đặc điểm chung của các loại thị trường, vừa có đặc thù riêng của thị trường một loại sản phẩm đặc biệt – sản phẩm của trí tuệ.
Đảng ta luôn xác định, phát triển và ứng dụng KHCN là quốc sách hàng đầu, là một trong những động lực quan trọng nhất để phát triển kinh tế-xã hội và bảo vệ Tổ quốc; là một trong 3 đột phá chiến lược. Đây là nội dung cần được ưu tiên tập trung đầu tư trước một bước trong hoạt động của các ngành, các cấp; trong bối cảnh một nước đang phát triển, nền kinh tế đang chuyển đổi, chúng ta cần bình tĩnh, thận trọng, chắc chắn, không cầu toàn, không nóng vội với bước đi phù hợp, linh hoạt, có bản lĩnh để xử lý các vấn đề phát sinh.
Thị trường KHCN là một trong những yếu tố quan trọng tạo nên thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Phát triển mạnh mẽ thị trường KHCN là một nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu thúc đẩy phát triển KHCN và đổi mới sáng tạo để tạo bứt phá về năng suất, chất lượng, hiệu quả và tăng sức cạnh tranh của nền kinh tế trong bối cảnh đang diễn ra cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
Những năm qua, Đảng, Nhà nước luôn dành sự quan tâm đặc biệt, ban hành, triển khai thực hiện nhiều chủ trương, chính sách, pháp luật để phát triển KHCN nói chung và thị trường KHCN nói riêng.
Các ý kiến tại hội nghị thống nhất đánh giá, dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước; sự nỗ lực của các cấp, các ngành; sự vào cuộc tích cực của cả hệ thống chính trị, các tổ chức, cá nhân và doanh nghiệp; sự tham gia, cống hiến của các chuyên gia, nhà khoa học; sự hỗ trợ của bạn bè, đối tác quốc tế, thị trường KHCN nước ta đã có bước phát triển và đạt được một số kết quả đáng ghi nhận.
Theo đó, thể chế, chính sách phát triển thị trường KHCN từng bước được hoàn thiện. Nguồn cung hàng hoá KHCN tăng đáng kể. Tốc độ tăng giá trị giao dịch hàng hoá KHCN trên thị trường bình quân hằng năm đạt 22%.
Kết quả nghiên cứu của các viện, trường, nhà khoa học trở thành hàng hóa được các doanh nghiệp, thị trường đón nhận. Nhu cầu và năng lực tiếp cận, hấp thụ và làm chủ công nghệ mới, công nghệ tiên tiến của các doanh nghiệp ngày càng tăng và được cải thiện.
Các đầu mối trung gian thị trường KHCN từng bước được hình thành với hơn 800 tổ chức, trong đó hơn 20 sàn giao dịch công nghệ đã đi vào hoạt động. Công tác xúc tiến thị trường KHCN tiếp tục được duy trì và đẩy mạnh.
Tuy nhiên, trong bối cảnh tình hình thế giới diễn biến nhanh, phức tạp; cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư tác động sâu rộng; đặc biệt là ảnh hưởng của đại dịch COVID-19 làm trì trệ và gây nhiều cản trở hơn cho phát triển thị trường KHCN.
Thủ tướng cơ bản nhất trí với các đánh giá về hạn chế của thị trường KHCN như đã nêu trong Báo cáo của Bộ và lưu ý thêm:
So với nhu cầu thực tiễn và các thị trường khác, đặc biệt là so với các nước phát triển và một số nước trong khu vực, thị trường KHCN còn chậm phát triển, vận hành còn nhiều vướng mắc, nhiều nơi còn hình thức, thiếu thực chất.
Thể chế, chính sách phát triển thị trường KHCN còn bất cập, thiếu đồng bộ làm cho việc hợp tác giữa các doanh nghiệp, viện nghiên cứu, trường đại học… gặp nhiều khó khăn, thậm chí ách tắc, nhất là trong bối cảnh tình hình có nhiều diễn biến nhanh chóng, phức tạp, khó lường, chưa có tiền lệ như hiện nay.
Việc thương mại hoá kết quả nghiên cứu, tài sản trí tuệ của các viện nghiên cứu, trường đại, các nhà khoa học học còn hạn chế, làm khan hiếm nguồn cung hàng hoá KHCN trên thị trường.
Việc giao dịch mua bán công nghệ chủ yếu dưới hình thức hợp đồng mua sắm máy móc, thiết bị, vật tư. Việc chuyển giao công nghệ còn rất hạn chế.
Các tổ chức trung gian về chuyển đổi công nghệ còn yếu về năng lực, chưa đủ uy tín và chưa có thương hiệu để thúc đẩy giao dịch công nghệ; chưa có các tổ chức trung gian chuyên ngành trong các lĩnh vực, ngành hàng quan trọng. Chưa hình thành được mạng lưới các tổ chức trung gian trong nước, kết nối với thị trường khu vực và quốc tế.
Hệ thống hạ tầng quốc gia của thị trường KHCN còn yếu kém, lạc hậu, thiếu khả năng liên thông và tương tác giữa các chủ thể tham gia. Cổng thông tin quốc gia, cơ sở dữ liệu và nền tảng kỹ thuật số về thị trường KHCN chưa được đầu tư phát triển.
Thủ tướng nêu rõ, những hạn chế trên có nhiều nguyên nhân, trong đó nguyên nhân chủ quan là chủ yếu.
Trong đó, nhận thức của các cấp, các ngành và các địa phương về vị trí, vai trò của thị trường KHCN trong thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN còn chưa đầy đủ, toàn diện. Công tác lãnh đạo, chỉ đạo phát triển thị trường KHCN chưa đáp ứng được yêu cầu đòi hỏi của thực tiễn. Năng lực quản trị, vận hành còn yếu.
Các cơ chế, chính sách còn nhiều bất cập, chưa đồng bộ. Còn thiếu cơ chế, chính sách khuyến khích, tạo động lực cho các nhà khoa học, nhà sáng chế chuyển giao, thương mại hóa kết quả nghiên cứu, tài sản trí tuệ.
Các tổ chức KHCN chưa chú trọng đúng mức đến hoạt động thương mại hoá kết quả nghiên cứu, tài sản trí tuệ như một phương thức biến tri thức khoa học thành hàng hoá, sức sản xuất hiện thực của xã hội.
Các tổ chức trung gian thị trường KHCN chưa được quan tâm và đầu tư phù hợp; việc nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ chưa được chú trọng.
Việc liên kết thị trường KHCN Việt Nam với thị trường quốc tế chưa được quan tâm đúng mức; chưa phát huy tiềm năng "chất xám" và quan hệ của đội ngũ các nhà khoa học người Việt Nam ở nước ngoài.
Lấy khoa học là nền tảng, nhà khoa học là động lực, doanh nghiệp là trung tâm
Thủ tướng nêu rõ, chúng ta đang tập trung xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ gắn với tích cực, chủ động hội nhập quốc tế sâu rộng, thực chất, hiệu quả, hướng tới sở hữu những ngành công nghiệp phát triển, ứng dụng khoa học công nghệ, sở hữu những phát minh, sáng chế mới, những công nghệ tiên tiến. Tuy nhiên, theo Lenin, nếu "không xây dựng công nghệ, thì không giữ được địa vị độc lập của nước mình".
Đại hội lần thứ XIII của Đảng tiếp tục xác định 3 đột phá chiến lược, trong đó: "Tiếp tục phát triển toàn diện nguồn nhân lực, khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo gắn với khơi dậy khát vọng phát triển đất nước, lòng tự hào dân tộc, ý chí tự cường và phát huy giá trị văn hóa, con người Việt Nam", "Tiếp tục hoàn thiện và nâng cao chất lượng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đầy đủ, đồng bộ, hiện đại, hội nhập, trọng tâm là thị trường các yếu tố sản xuất, nhất là thị trường quyền sử dụng đất, khoa học, công nghệ".
Về phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp phát triển thị trường KHCN thời gian tới, Thủ tướng cơ bản nhất trí với Báo cáo và ý kiến phát biểu của các đại biểu dự Hội nghị. Thủ tướng nhấn mạnh một số nội dung sau:
Về quan điểm chung:
(1) Thị trường KHCN là một bộ phận cấu thành của thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, có vai trò then chốt trong việc thúc đẩy hoạt động KHCN và đổi mới sáng tạo, nâng cao năng suất lao động, chất lượng hàng hóa, dịch vụ và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế.
(2) Phát triển thị trường KHCN phải lấy khoa học là nền tảng, nhà khoa học là động lực, doanh nghiệp là trung tâm, phù hợp với bối cảnh của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư và tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Huy động tối đa nguồn lực từ khu vực tư nhân và hợp tác quốc tế, đẩy nhanh tốc độ đổi mới sản phẩm và dịch vụ có độ tích hợp cao về công nghệ, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp nhanh chóng gia nhập chuỗi giá trị toàn cầu và chiếm lĩnh thị trường quốc tế.
(3) Phát triển của thị trường KHCN cần có chính sách đồng bộ, phù hợp, sự sẵn sàng của các nguồn cung cầu công nghệ, hệ thống hạ tầng kỹ thuật hiện đại cùng năng lực, uy tín và thương hiệu của các tổ chức trung gian.
(4) Phát triển thị trường KHCN cần được đặt trong bối cảnh và mối quan hệ biện chứng, liên thông, đồng bộ với phát triển thị trường hàng hóa, dịch vụ, lao động, tài chính và các thị trường khác; gắn kết thị trường trong nước với thị trường toàn cầu và khu vực, phù hợp với cam kết quốc tế của Việt Nam và thông lệ quốc tế.
(5) Phát triển thị trường KHCN phải tuân thủ các quy luật thị trường (quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh (cạnh tranh lành mạnh, công khai, minh bạch, bền vững để giảm giá thành, chất lượng cao, thanh toán thuận lợi).
Về các nhiệm vụ, giải pháp cụ thể, Thủ tướng nêu rõ:
Thứ nhất, nâng cao nhận thức về thị trường KHCN. Tập trung rà soát, tháo gỡ các khó khăn, điểm nghẽn về thể chế, cơ chế, chính sách để thị trường KHCN phát triển đồng bộ, hiệu quả, hiện đại và hội nhập theo đúng tinh thần Đại hội XIII của Đảng và các nghị quyết của Bộ Chính trị, Quốc hội, Chính phủ.
Các bộ, ngành, cơ quan, địa phương xây dựng và lồng ghép kế hoạch phát triển thị trường KHCN vào kế hoạch phát triển KTXH 5 năm và hằng năm.
Thứ hai, triển khai hiệu quả 2 mục tiêu lớn và 7 nhóm nhiệm vụ, giải pháp đã đề ra tại Chương trình Phát triển thị trường KHCN quốc gia đến năm 2030 theo Quyết định số 1158/QĐ-TTg ngày 13/7/2021 của Thủ tướng Chính phủ, trong đó:
- Thúc đẩy phát triển nguồn cung và cầu của thị trường KHCN, nâng cao năng lực hấp thụ, làm chủ và đổi mới công nghệ của doanh nghiệp, đẩy mạnh hợp tác giữa doanh nghiệp và viện nghiên cứu, trường đại học. Đẩy mạnh kết nối cung cầu, người mua và người bán, sản xuất và tiêu dùng.
- Nâng cao năng lực hoạt động các tổ chức trung gian, nhất là các tổ chức lớn, đa ngành và gắn với các ngành hàng xuất khẩu chủ lực. Khuyến khích, hỗ trợ phát triển tổ chức trung gian thuộc khu vực tư nhân. Phát triển mạnh mạng lưới tổ chức trung gian trên cơ sở kết nối các sàn giao dịch công nghệ, các tổ chức dịch vụ KHCN tại các viện nghiên cứu, trường đại học, doanh nghiệp với các trung tâm ứng dụng, chuyển giao tiến bộ KHCN.
- Đầu tư phát triển các sàn giao dịch công nghệ quốc gia tại một số thành phố lớn và khu vực kinh tế trọng điểm đã được quy hoạch phê duyệt liên thông với hệ thống các trung tâm ứng dụng và chuyển giao công nghệ của các tỉnh, thành phố, kết nối với các sàn giao dịch công nghệ khu vực và thế giới.
- Tăng cường xúc tiến thị trường KHCN tại các địa bàn có nhiều nguồn cung công nghệ cao, tiên tiến và thân thiện môi trường, các thị trường tiềm năng mà Việt Nam có lợi thế thông qua các hiệp định thương mại tự do. Đẩy mạnh tổ chức các sự kiện xúc tiến thị trường KHCN quy mô vùng, quốc gia và quốc tế; quảng bá thị trường KHCN và đổi mới sáng tạo; lồng ghép, phối hợp với các sự kiện xúc tiến thương mại và đầu tư.
- Phát triển đồng bộ hệ thống hạ tầng quốc gia của thị trường KHCN. Từng bước liên thông, tích hợp với các nền tảng kỹ thuật số về thị trường KHCN trong nước và quốc tế.
- Tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực KHCN. Đẩy mạnh hơn nữa công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức của toàn xã hội về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của thị trường KHCN và phát triển thị trường KHCN. Phát triển các doanh nghiệp tiên phong trong mua bán công nghệ, nhất là công nghệ cao, công nghệ nguồn.
Thứ ba, đẩy mạnh kết nối liên thông, tiến tới đồng bộ hóa thị trường KHCN với các thị trường hàng hóa, dịch vụ, lao động và tài chính. Đẩy mạnh hợp tác công tư, huy động nguồn lực xã hội trong phát triển thị trường KHCN.
Thứ tư, tập trung xây dựng và triển khai thí điểm chính sách tạo động lực thương mại hoá, sớm đưa kết quả nghiên cứu, tài sản trí tuệ được tạo ra từ ngân sách nhà nước, từ hợp tác công tư và nghiên cứu của tư nhân vào sản xuất, kinh doanh.
Thứ năm, có chính sách khuyến khích doanh nghiệp nhập khẩu công nghệ lõi thông qua các viện nghiên cứu, trường đại học để giải mã, hấp thụ và làm chủ công nghệ, đẩy nhanh tốc độ đổi mới công nghệ của doanh nghiệp.
Thứ sáu, xây dựng chính sách khuyến khích đổi mới sáng tạo, xây dựng, chia sẻ cơ sở dữ liệu lớn để phát triển trí tuệ nhân tạo. Đẩy mạnh phát triển hệ sinh thái KHCN, thị trường KHCN đồng bộ, toàn diện hơn nữa.
Nhân dịp này, Thủ tướng trân trọng cảm ơn và mong muốn các quốc gia, tổ chức quốc tế tiếp tục quan tâm hỗ trợ, hợp tác chặt chẽ với Việt Nam trong công tác phát triển KHCN nói chung và phát triển thị trường KHCN nói riêng. Các nhà khoa học là người Việt Nam ở nước ngoài, thông qua hệ thống, mạng lưới của mình, cần tham gia thiết thực, hiệu quả hơn nữa để hỗ trợ chuyển giao công nghệ cao, công nghệ xanh cho các tổ chức, cá nhân trong nước, đóng góp tích cực vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Trong giai đoạn phát triển mới, Thủ tướng tin tưởng rằng với sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, Nhà nước; quyết tâm, nỗ lực cao của các bộ, ngành, cơ quan, địa phương; sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị; sự chung tay, ủng hộ của cộng đồng doanh nghiệp và đồng bào trong và ngoài nước; sự hợp tác, hỗ trợ hiệu quả của các quốc gia, tổ chức, cá nhân nước ngoài, thị trường KHCN nói riêng và nền KHCN nói chung của nước ta sẽ có những bước phát triển mới, thiết thực, hiệu quả hơn, đóng góp xứng đáng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.