
Trung tâm triển lãm Việt Nam. Ảnh: TL
Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về tiềm lực của quốc gia trong quan hệ quốc tế
Tiềm lực của một quốc gia là yếu tố quan trọng hàng đầu trong xác định, nhận diện vị thế, sức mạnh tổng hợp quốc gia, cũng như quyết định khả năng quy tụ nguồn lực triển khai mục tiêu chiến lược của quốc gia. Về cơ bản, tiềm lực của quốc gia có thể được nhận diện thông qua tổng hòa yếu tố chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội, khoa học - công nghệ, quốc phòng - an ninh, địa lý và bản sắc truyền thống, lịch sử dân tộc. Nói cách khác, tiềm lực của quốc gia bao hàm cả “sức mạnh cứng”, “sức mạnh tĩnh” (địa - chính trị, địa - chiến lược, tiềm lực kinh tế, quân sự, tài nguyên thiên nhiên, nhân lực) và “sức mạnh mềm”, “sức mạnh động” (uy tín, vị thế, tầm ảnh hưởng, sức lan tỏa về văn hóa tầm khu vực và quốc tế).
Theo nhiều chuyên gia, sự phân định này mang ý nghĩa tương đối vì giữa các nội hàm, phạm trù sức mạnh và yếu tố “động” - “tĩnh” luôn có sự tương tác, giao thoa, chuyển hóa, bổ sung lẫn nhau trong mỗi thời kỳ lịch sử. Vì vậy, tiềm lực của quốc gia có thể mở rộng, phát triển nội hàm nếu quốc gia đó biết tận dụng, khai thác tối ưu lợi thế đặc thù của đất nước trong quan hệ quốc tế. Chẳng hạn, một quốc gia vừa và nhỏ vẫn có thể là chủ thể trung gian hòa giải thành công một cuộc xung đột lớn, phức tạp nhờ uy tín, vị thế quốc tế, cũng như khả năng điều hòa mâu thuẫn và tạo dựng lòng tin chiến lược với các bên trực tiếp liên quan. Thậm chí, một quốc gia không có biển vẫn có thể đẩy mạnh hội nhập quốc tế nhờ năng lực kết nối, trở thành hành lang trung chuyển hàng hóa với các quốc gia có biển.
Nhìn chung, tiềm lực của một quốc gia có thể được hình dung về phương diện giá trị địa - chính trị, địa - chiến lược; sức mạnh tổng hợp quốc gia, vị thế, uy tín trên trường quốc tế.
Giá trị địa - chính trị, địa - chiến lược được hiểu là sự kết hợp giữa các yếu tố địa lý và chính trị để làm chủ, khai thác không gian chiến lược của quốc gia vì mục tiêu, lợi ích chính yếu, lâu dài của quốc gia trong quan hệ quốc tế. “Địa - chính trị” xem xét toàn bộ tác động của nhân tố địa lý lên chính trị, nhất là đối với quan hệ quốc tế. Trong khi đó, “địa - chiến lược” chỉ là một nhánh của “địa - chính trị”, bởi chỉ liên quan đến khía cạnh chiến lược, chính sách, tức là nỗ lực chủ quan của các chính phủ trong việc tận dụng yếu tố địa lý để đạt được các mục tiêu quan trọng về an ninh, phát triển, ảnh hưởng(2). “Địa bàn” cho tính toán “địa - chiến lược” là “không gian chiến lược”, bao gồm các khía cạnh quan trọng nhất của “không gian tự nhiên” (vùng đất, vùng biển, vùng trời, không gian vũ trụ) có tính khách quan, khá ổn định, ít biến đổi và gần đây bao gồm cả “không gian nhân tạo” mang tính chủ quan, luôn biến động, như internet, liên kết kinh tế - chính trị, văn hóa - xã hội, giao lưu nhân dân giữa các quốc gia, tổ chức.
Khi đi sâu nghiên cứu về vai trò của yếu tố địa lý đối với không gian chiến lược của quốc gia, nhiều học giả, chính trị gia quốc tế đã đưa ra không ít luận thuyết khác nhau nhằm định hướng và triển khai chính sách đối ngoại quốc gia. Theo nhà địa - chính trị, địa - chiến lược người Mỹ Ni-cô-lát J. Xpai-cơ-men (Nicolas J. Spykman), “địa lý của một đất nước là vật liệu cho chính sách của một quốc gia đó”. Trong khi đó, nhà địa lý học người Đức - tác giả của luận thuyết về không gian sinh tồn Phe-đơ-rích Rát-gien (Fredrich Ratzel) cho rằng, “không gian” (raum) không chỉ là một nguồn lực của quyền lực chính trị, mà còn là một sức mạnh chính trị, nơi diễn ra sự gia tăng và bành trướng sức mạnh của một quốc gia và sức mạnh quốc gia phụ thuộc vào mối quan hệ của nhà nước với không gian(3). Sau này, thuyết “Vành đai đất vùng ven” của học giả Ni-cô-lát J. Xpai-cơ-men(4) đã định hướng cho “chiến lược ngăn chặn” của Mỹ chống Liên Xô (trước đây) từ sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai. Thuyết “Sự lựa chọn khu vực” trong “trò chơi quyền lực” của học giả Z. Brê-din-xki (Zbigniew Brzezinski)(5) đã góp phần định hướng chính sách đối ngoại của Mỹ đối với từng khu vực, cũng như các nước khác nhau, nhất là với Trung Quốc và Nga từ sau Chiến tranh lạnh. Hay tranh luận dựa trên nền tảng tư tưởng của học giả H. Mác-kin-đơ (Hanford J. Mackinder) đặt lục địa Á - Âu ở vị trí trung tâm và nhà địa - chiến lược Mỹ An-phrét Thay-ơ Ma-han (Alfred Thayer Mahan) cho rằng “định mệnh địa - chính trị thế giới” phụ thuộc vào các đại dương, như Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương, được dẫn chiếu để luận giải hành vi mở rộng ảnh hưởng của các nước lớn, như Mỹ, Trung Quốc, Nga, Ấn Độ ở các vùng đất trung tâm và vùng biển chiến lược.
Cùng với giá trị địa - chính trị, địa - chiến lược, giá trị về sức mạnh tổng hợp quốc gia, bao gồm quy mô dân số, kinh tế, quân sự, tài nguyên, đặc điểm dân cư - dân tộc, truyền thống văn hóa - lịch sử,… có tác động và vai trò hết sức quan trọng, tạo cơ sở cho việc đề ra quyết sách và dẫn dắt hành vi đối ngoại của quốc gia trong quan hệ quốc tế. Đơn cử như, quốc gia có quy mô dân số đông không chỉ có khả năng cung cấp nguồn nhân lực dồi dào đối với sự phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng - an ninh, mà còn tạo ra một thị trường tiêu thụ nội địa rộng lớn để thu hút thương mại, đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), cũng như tạo ảnh hưởng về văn hóa, phong tục, tập quán đối với quốc gia trong khu vực có quy mô dân số nhỏ hơn.
Vị thế, uy tín trên trường quốc tế cũng là yếu tố quan trọng khi đề cập tiềm lực quốc gia, mà khi kết hợp với phạm trù ảnh hưởng văn hóa - xã hội tạo thành “sức mạnh mềm” quốc gia theo nghĩa rộng. Khái niệm “sức mạnh mềm” lần đầu tiên được Giáo sư Giô-xép Nai (Joseph Nye), nguyên Hiệu trưởng Trường Quản trị công J. F. Kennedy, thuộc Đại học Harvard (Mỹ), nguyên trợ lý Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ đề cập vào năm 1990(6). Theo đó, sức mạnh mềm được hiểu là khả năng tạo sức hấp dẫn, lôi cuốn, thu hút để các nước khác “tự nguyện” thay đổi hành vi, chính sách phù hợp với điều mà quốc gia đó mong muốn, thay vì cưỡng bức thông qua sức mạnh kinh tế và quân sự. Sức mạnh mềm và sức mạnh cứng củng cố, bổ sung và tăng cường cho nhau, kết hợp thành sức mạnh tổng hợp quốc gia. Hiện nay, có nhiều cách tiếp cận, đánh giá khác nhau về tiêu chí sức mạnh mềm. Một số tổ chức quốc tế đã xây dựng các bảng chỉ số xếp hạng về sức mạnh mềm, như Global Soft Power Index(7), Soft Power 30(8). Mặc dù có một số khác biệt, song về cơ bản, các chỉ số này đều sắp xếp các nước, như Mỹ, Anh, Pháp, Đức, I-ta-li-a, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ô-xtrây-li-a ở vị trí cao về sức mạnh mềm.
Thời gian qua, nhiều nước lớn, quốc gia tầm trung đã sử dụng kết hợp công cụ chính trị, ngoại giao, văn hóa để gia tăng nguồn sức mạnh mềm. Đơn cử như, Trung Quốc chú trọng chính sách ngoại giao thân thiện, hợp tác cùng có lợi, phát triển hài hòa, lồng ghép văn hóa và các giá trị Trung Quốc; triển khai nhiều sáng kiến mang đậm giá trị Trung Quốc, như “Cộng đồng chung vận mệnh nhân loại”, “Vành đai, Con đường”; thiết lập mạng lưới các Viện Khổng Tử và các sáng kiến toàn cầu mới, như Sáng kiến Phát triển toàn cầu (GDI), Sáng kiến An ninh toàn cầu (GSI) và Sáng kiến Văn minh toàn cầu (GCI). Mỹ, Anh, Pháp, Ca-na-đa, các nước châu Âu đề cao giá trị nền dân chủ phương Tây, quảng bá thành tựu khoa học - công nghệ và nghệ thuật. Ấn Độ chú trọng lan tỏa sức hấp dẫn của một quốc gia có lợi thế từ một nền đại dân chủ, thể chế chính trị ổn định; nền văn minh sông Hằng, văn hóa lâu đời với nhiều tôn giáo lớn cùng chung sống hòa hợp. Hàn Quốc, Nhật Bản, Xin-ga-po phát huy thế mạnh về tài chính, giáo dục, đổi mới sáng tạo, coi xây dựng thương hiệu toàn cầu là yếu tố quan trọng để phát huy sức mạnh mềm quốc gia trên cả bình diện song phương và đa phương. In-đô-nê-xi-a coi trọng sự kết hợp giữa nền dân chủ, đạo Hồi giáo và tính khoan dung, đặc biệt trong thúc đẩy vai trò trung gian hòa giải, giải quyết xung đột…
Tiềm lực của quốc gia cũng gắn với năng lực mở rộng không gian chiến lược, nhất là không gian chưa được khai phá, như vũ trụ, đáy biển, Bắc Cực, Nam Cực. Tháng 8-2023, sự kiện tàu vũ trụ Chandrayaan-3 của Ấn Độ hạ cánh thành công xuống gần cực nam của Mặt Trăng được coi là dấu mốc đưa Ấn Độ trở thành cường quốc không gian và là quốc gia thứ tư trên thế giới (sau Liên Xô, Mỹ và Trung Quốc) đổ bộ lên Mặt Trăng. Trong bối cảnh nhu cầu chuyển đổi kinh tế và công nghệ trên thế giới ngày càng gia tăng, Mỹ, Trung Quốc và châu Âu đang là các quốc gia đi đầu trong cuộc đua dưới lòng biển sâu, tập trung vào mỏ khoáng sản thường nằm ở độ sâu gần 200m dưới mực nước biển, chứa nhiều coban, đồng, niken và khoáng chất cần thiết cho nền công nghệ xanh. Gần đây, Bắc Cực cũng trở thành “chiến trường” địa - chính trị mới, nơi các cường quốc cạnh tranh ảnh hưởng và khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên; trong đó, Nga được cho là đang chiếm ưu thế với mạng lưới căn cứ quân sự vững chắc cùng tuyến hàng hải chiến lược giúp rút ngắn hành trình thương mại toàn cầu.
Thực tiễn trên cho thấy, việc xác định rõ mục tiêu, lợi ích chiến lược và khát vọng làm chủ không gian chiến lược cùng đường lối phát triển đúng đắn là những yếu tố quyết định sự tạo lập thành công của quốc gia. Đồng thời, nếu quốc gia không xây dựng được mục tiêu mang tầm chiến lược trong quan hệ quốc tế sẽ khó có thể xác định rõ tầm cỡ, tính chất và hiệu quả của không gian chiến lược mà quốc gia đó đang theo đuổi.
Nhận diện tiềm lực của Việt Nam sau gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới
Từ đánh giá chung ở trong nước và quốc tế, có thể khái quát tiềm lực của Việt Nam trên ba phương diện chính.
Một là, Việt Nam có vị trị địa - chính trị, địa - chiến lược quan trọng ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương - Ấn Độ Dương phát triển đầy năng động. Về địa lý, Việt Nam là quốc gia ở khu vực Đông Nam Á lục địa với bờ biển dài 3.260km trải dài từ Bắc xuống Nam, nằm trong số 10 nước có chỉ số cao nhất về chiều dài bờ biển so với diện tích lãnh thổ; sở hữu nhiều cảng nước sâu có năng lực vận tải lớn. Việt Nam là quốc gia nằm ở khu vực Biển Đông - tuyến hàng hải ngắn nhất nối Ấn Độ Dương với Thái Bình Dương, là “cửa ngõ” giao thương quốc tế, chiếm hơn 1/2 trọng tải vận chuyển thương mại hàng hải toàn cầu, có ý nghĩa quan trọng không chỉ đối với các quốc gia và vùng lãnh thổ xung quanh, mà còn đối với khu vực và thế giới. Những đặc điểm này đã tạo nên giá trị địa - chính trị, địa - chiến lược quan trọng của Việt Nam, giúp Việt Nam được các cường quốc trong và ngoài khu vực coi là một “mắt xích” trọng yếu để triển khai chiến lược, sáng kiến hợp tác.
Hai là, truyền thống yêu nước nồng nàn, sâu sắc, bền bỉ và ý chí “không có gì quý hơn độc lập, tự do” kết tinh trong hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, làm nên mạch nguồn của một dân tộc văn hiến, nhân văn, nghĩa tình, đồng thời tạo thành sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, đưa đất nước vượt qua mọi khó khăn, thử thách. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”(9). Có thể thấy, hiếm có một dân tộc nào trên thế giới phải chống ngoại xâm triền miên với thời gian kéo dài như dân tộc Việt Nam. Chỉ tính từ cuộc kháng chiến chống quân Tần vào thế kỷ III trước Công nguyên đến tận thế kỷ XX, Việt Nam đã phải tiến hành nhiều cuộc chiến tranh giữ nước và hàng trăm cuộc khởi nghĩa lớn, nhỏ, hàng chục cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc quy mô rộng lớn để bảo vệ Tổ quốc.
Đặc thù về địa lý và lịch sử, tính đoàn kết, cố kết dân tộc đã trở thành một yêu cầu thiết thân của dân tộc Việt Nam. Đó là yêu cầu gắn kết các dân tộc, cộng đồng để hợp tụ thành một khối thống nhất chống nguy cơ xâm lược, tấn công từ bên ngoài; là nhu cầu gắn kết để ứng phó với thiên tai, thúc đẩy sản xuất nông nghiệp; nhu cầu đoàn kết xây dựng cộng đồng mới trong quá trình xây dựng và phát triển quốc gia - dân tộc; là tinh thần yêu chuộng hòa bình, chính nghĩa, đề cao độc lập, tự chủ, tự cường; là sự sáng suốt, quyết đoán trong ứng xử, xử lý các mối quan hệ quốc tế trên cơ sở kiên định về nguyên tắc, bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc, nhưng linh hoạt về sách lược, hài hòa với lợi ích chính đáng của đối tác.
Ba là, sau gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng, “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”(10). Về kinh tế, Việt Nam là một trong 34 nền kinh tế lớn nhất thế giới và nằm trong nhóm 20 nước có quy mô thương mại lớn nhất thế giới(11). Tốc độ tăng trưởng kinh tế luôn duy trì ở mức độ tương đối cao. Năm 2024, Việt Nam tiếp tục là điểm sáng về tăng trưởng và thuộc nhóm nước tăng trưởng cao trong khu vực và trên thế giới. Tăng trưởng GDP cả năm đạt 7,09%; quy mô kinh tế đạt khoảng 476,3 tỷ USD. Đồng thời, Việt Nam tiếp tục là điểm đến an toàn, hấp dẫn của doanh nghiệp, đối tác, nhà đầu tư quốc tế; thuộc nhóm 15 nước đang phát triển thu hút vốn đầu tư nước ngoài lớn nhất thế giới, đạt 38,23 tỷ USD; có quan hệ kinh tế - thương mại với 230 nước và vùng lãnh thổ; tham gia đàm phán và ký kết 17 hiệp định thương mại tự do (FTA) với 60 nền kinh tế, trong đó có 3 FTA thế hệ mới tiêu chuẩn cao, trở thành một mắt xích quan trọng trong chuỗi cung ứng khu vực và toàn cầu(12).
Về ngoại giao, hiện nay, Việt Nam có quan hệ ngoại giao với 194 nước, trong đó 3 nước quan hệ đặc biệt, 13 nước đối tác chiến lược toàn diện, 11 nước đối tác chiến lược và 14 nước đối tác toàn diện; là thành viên tích cực, có trách nhiệm của hơn 70 tổ chức, diễn đàn quốc tế quan trọng, như Liên hợp quốc, ASEAN, Diễn đàn Hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC), Diễn đàn hợp tác Á - Âu (ASEM), Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Đảng Cộng sản Việt Nam có quan hệ với 259 chính đảng ở 119 quốc gia và khu vực, trong đó có 92 đảng cộng sản, công nhân, hơn 100 đảng cầm quyền, tham chính. Quốc hội Việt Nam có quan hệ với quốc hội, nghị viện của hơn 140 quốc gia, tham gia tích cực tại nhiều diễn đàn nghị viện quốc tế quan trọng. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể, tổ chức nhân dân của Việt Nam triển khai quan hệ thiết thực với khoảng 1.200 tổ chức nhân dân và tổ chức phi chính phủ nước ngoài. Vị thế và uy tín quốc tế của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới ngày càng được nâng cao, đóng góp tích cực và đầy tinh thần trách nhiệm vào việc giữ vững hòa bình, hợp tác phát triển và tiến bộ trên thế giới. Việt Nam đã tổ chức thành công nhiều hội nghị quốc tế lớn, hoàn thành nhiều trọng trách quốc tế quan trọng(13); chủ động, tích cực đưa ra nhiều ý tưởng, sáng kiến, tham gia giải quyết vấn đề chung của khu vực và thế giới. Đối ngoại, ngoại giao đa phương Việt Nam đã thể hiện bước trưởng thành mạnh mẽ, chứng minh Việt Nam là một thành viên tích cực, có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế.
Những vấn đề đặt ra nhằm phát huy tiềm lực của Việt Nam trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc
Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị và đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm đã đề ra tầm nhìn chiến lược đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, đó là kỷ nguyên phát triển, kỷ nguyên giàu mạnh, kỷ nguyên thịnh vượng dưới sự lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản, xây dựng thành công nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Ưu tiên hàng đầu trong kỷ nguyên mới là thực hiện thắng lợi các mục tiêu chiến lược đến năm 2030, Việt Nam trở thành nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến năm 2045 trở thành nước xã hội chủ nghĩa phát triển, có thu nhập cao.
Từ tầm nhìn, mục tiêu phát triển và trong bối cảnh cục diện quốc tế tiếp tục biến động nhanh chóng, khó dự báo, Việt Nam cần phát huy hơn nữa tiềm lực của đất nước để gia tăng mạnh mẽ sức mạnh tổng hợp quốc gia. Có thể đánh giá một số vấn đề chính đặt ra như sau:
Thứ nhất, khu vực châu Á - Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương tiếp tục là động lực tăng trưởng toàn cầu và là trọng điểm kết nối, hợp tác giữa các nước, là khu vực hòa bình, ổn định so với các khu vực khác. Với nền tảng ổn định chính trị vững chắc cùng những điều kiện thuận lợi về thể chế, thị trường khoảng 100 triệu dân, Việt Nam sẽ tiếp tục là một mắt xích quan trọng của chuỗi cung ứng toàn cầu và khu vực, đồng thời là điểm đến hấp dẫn của nhà đầu tư.
Mặt khác, môi trường quốc tế và khu vực hàm chứa nhiều thách thức an ninh truyền thống và an ninh phi truyền thống tiếp diễn đan xen, gây ra nhiều khó khăn trong bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an ninh con người, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội. Cạnh tranh nước lớn, áp dụng thuế quan, sự gia tăng chính trị cường quyền, bảo hộ thương mại, hành động đơn phương, vi phạm luật pháp quốc tế sẽ đặt ra nhiều thách thức hơn đối với chủ quyền, an ninh, kinh tế của các nước tầm trung, các nước vừa và nhỏ.
Thứ hai, những thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, tiến bộ đột phá về khoa học - công nghệ và các lĩnh vực phát triển mới về chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, chuyển đổi năng lượng đang mở ra nhiều cơ hội mới để Việt Nam rút ngắn khoảng cách phát triển với thế giới. Đặc biệt, Nghị quyết số 57-NQ/TW, ngày 22-12-2024, của Bộ Chính trị, “Về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia” và Nghị quyết số 59-NQ/TW, ngày 24-1-2025, “Về hội nhập quốc tế trong tình hình mới”, đã kiến tạo thêm khung chính sách, thể chế, nguồn lực và động lực thuận lợi cho đất nước phát triển bứt phá, hướng tới tăng trưởng hai con số.
Tuy nhiên hiện nay, Việt Nam là một trong những nền kinh tế có độ mở cao hàng đầu thế giới, với kim ngạch xuất, nhập khẩu phụ thuộc vào khu vực có nguồn vốn FDI và một số thị trường truyền thống (Trung Quốc, Mỹ, Liên minh châu Âu), trong khi sức mua của thị trường nội địa và năng lực hấp thụ đầu tư trong nước còn hạn chế. Nguy cơ chiến tranh thương mại bùng phát giữa các nước lớn sẽ ảnh hưởng bất lợi đến đà tăng trưởng của nền kinh tế Việt Nam. Mặc dù Việt Nam tham gia nhiều FTA thế hệ mới, nhưng dường như chúng ta chưa tận dụng tốt cơ hội. Nguy cơ tụt hậu, trì trệ, ở vào vị trí thấp trong chuỗi cung ứng khu vực và toàn cầu sẽ hiện hữu nếu Việt Nam không tận dụng được đầy đủ giá trị chiến lược của đất nước để thu hút nguồn lực nước ngoài phục vụ quá trình chuyển đổi từ mô hình tăng trưởng dựa vào vốn và lao động sang mô hình tăng trưởng dựa trên khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo.
Thứ ba, mặc dù Việt Nam có giá trị địa - chính trị, địa - chiến lược quan trọng, song yếu tố tự nhiên và địa lý cũng đặt ra một số thách thức. Đặc thù địa lý đất liền dài và hẹp khiến việc tổ chức xây dựng và bảo vệ Tổ quốc gặp nhiều thách thức. Đồng thời, Việt Nam là một trong 5 quốc gia chịu ảnh hưởng nghiêm trọng từ biến đổi khí hậu. Trong khoảng 20 năm trở lại đây, nền kinh tế Việt Nam chịu thiệt hại trung bình khoảng 1 - 1,5% GDP/năm do thiên tai gây ra.
Trên cơ sở đó, trong thời gian tới, một số giải pháp sau cần được quan tâm:
Một là, nâng cao chủ động chiến lược trong nhận diện thời cơ, thuận lợi và khó khăn, thách thức từ biến động của môi trường bên ngoài đối với lợi ích an ninh, phát triển của đất nước “từ sớm, từ xa”, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc. Kinh nghiệm hội nhập quốc tế thành công của nhiều quốc gia trên thế giới cho thấy rõ tầm quan trọng của vấn đề tự lực, tự chủ, tự cường, đồng thời phải luôn đặt đất nước vào vị thế tối ưu trong xu hướng, trào lưu phát triển lớn của thế giới. Quốc phòng - an ninh, đối ngoại cần phối hợp chặt chẽ để phát huy vai trò “trọng yếu, thường xuyên”, cùng với ban, bộ, ngành, địa phương không ngừng đổi mới tư duy và phương thức triển khai nhiệm vụ để hiện thực hóa tiềm lực của đất nước thành nguồn lực cụ thể, thực chất, phục vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Hai là, tăng cường mở rộng không gian phát triển, kiến tạo cơ hội mới, tranh thủ tối ưu mọi nguồn lực và điều kiện thuận lợi nhằm thúc đẩy ba đột phá chiến lược của đất nước về thể chế, kết cấu hạ tầng, nguồn nhân lực. Với lợi thế từ cục diện đối ngoại rộng mở, đa dạng hóa, đa phương hóa, đối ngoại và ngoại giao cần tiếp tục đẩy mạnh nghiên cứu, tham mưu chủ trương, đối sách tăng cường hiệu quả khuôn khổ quan hệ mà Việt Nam đã thiết lập, nâng cấp trong những năm qua và thời gian tới. Tầm vóc mới của các khuôn khổ quan hệ đối ngoại hiện nay đòi hỏi tính bền vững hơn, tin cậy chính trị cao hơn, hợp tác sâu rộng hơn và lợi ích chiến lược đan xen chặt chẽ hơn. Đồng thời, cần duy trì môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước, đẩy lùi nguy cơ gây mất ổn định, đẩy mạnh hội nhập quốc tế trong lĩnh vực quốc phòng - an ninh để nâng cao thế và lực của đất nước, tăng cường lòng tin chiến lược, tạo thêm sức bật cho quan hệ đối ngoại.
Ba là, nâng tầm đóng góp của Việt Nam đối với hòa bình, phát triển bền vững và nền văn minh nhân loại, xây dựng và bảo vệ trật tự quốc tế công bằng, bình đẳng dựa trên luật pháp quốc tế. Thế và lực mới của đất nước cho phép Việt Nam không chỉ tham gia xây dựng, định hình luật lệ, thể chế đa phương, tham gia sáng kiến của các nước, mà còn có thể phát huy vai trò nòng cốt, dẫn dắt, trung gian hòa giải trong những vấn đề, cơ chế quan trọng, phù hợp với điều kiện và lợi ích của đất nước.
Bốn là, phát huy “sức mạnh mềm” của dân tộc, lan tỏa mạnh mẽ hình ảnh Việt Nam độc lập, tự chủ, hòa hiếu, hợp tác, hữu nghị, phát triển, tương xứng với tầm vóc lịch sử và văn hóa, vị thế chính trị và kinh tế của đất nước. Sức mạnh mềm của đất nước không chỉ là nguồn lực phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, mà cao hơn là hướng tới phát huy vai trò, ảnh hưởng của Việt Nam, vun đắp tình hữu nghị giữa nhân dân Việt Nam với các dân tộc trên thế giới, tranh thủ sự đồng tình và ủng hộ của cộng đồng quốc tế, gia tăng vị thế, ảnh hưởng của Việt Nam trên bản đồ chính trị, kinh tế toàn cầu và nền văn minh nhân loại.
Năm là, xây dựng hệ giá trị quốc gia trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc nhằm hệ thống hóa và phát huy giá trị cao đẹp của con người Việt Nam, như tinh thần yêu nước, tinh thần đại đoàn kết dân tộc, tinh thần tự lực, tự cường, tinh thần tương thân, tương ái, tinh thần đổi mới sáng tạo. Hệ giá trị quốc gia với các thành tố cơ bản, như hòa bình, thống nhất, độc lập, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, hạnh phúc sẽ góp phần đoàn kết, quy tụ toàn thể nhân dân Việt Nam, khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, khát vọng cống hiến, ý chí “tự chủ, tự tin, tự lực, tự cường, tự hào dân tộc”, phát huy sức mạnh vĩ đại của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại như Tổng Bí thư Tô Lâm đã nhấn mạnh.
Sáu là, tăng cường công tác nghiên cứu, dự báo chiến lược, nhất là chuyển động lớn, xu thế mới của thế giới và khu vực để kịp thời tham mưu cho Đảng, Nhà nước, tránh rơi vào thế bị động, bất ngờ trong mọi tình huống; đẩy mạnh nghiên cứu, tham chiếu kinh nghiệm thành công từ các quốc gia trên thế giới để phát huy giá trị chiến lược trong bối cảnh mới. Đồng thời, nghiên cứu, xây dựng và ban hành chủ trương, biện pháp tăng cường năng lực tự cường, sức chống chịu của nền kinh tế trước cú sốc bên ngoài, kiểm soát và bảo vệ hữu hiệu nguồn tài nguyên thiên nhiên, hệ thống hạ tầng trong bối cảnh nguy cơ phân tuyến, phân tách về kinh tế, khoa học - công nghệ giữa các nước lớn đang ngày càng gia tăng./.
TS Nguyễn Hải Lưu
Bộ Ngoại giao
--------------------------
(1) Tô Lâm: “Vươn mình trong hội nhập quốc tế”, Tạp chí Cộng sản, số 1.059, tháng 4-2025, tr. 9
(2) Lê Đình Tĩnh: “Tiếp cận khái niệm “địa - chiến lược” trong bối cảnh mới: Cơ hội và thách thức đối với Việt Nam đến năm 2030”, Tạp chí Cộng sản điện tử, ngày 18-9-2020, https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/the-gioi-van-de-su-kien/-/2018/819516/tiep-can-khai-niem-“dia---chien-luoc”-trong-boi-canh-moi--co-hoi-va-thach-thuc-doi-voi-viet-nam-den-nam-2030.aspx
(3) Trần Khánh: “Bàn về các luận thuyết liên quan đến địa chiến lược”, Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 7, 2019, tr. 4
(4) Xem: Nicholas J. Spykman: The Geography of the Peace (Tạm dịch: Địa lý của hòa bình), Harcourt, Brace and World, New York, 1944
(5) Zbigniew Brzezincki: The Grand Chessboard - American Primary and its geostrategic imperatives (Tạm dịch: Bàn cờ lớn - Sơ lược về Hoa Kỳ và các mệnh lệnh địa - chiến lược), Basic Books, 1997
(6) Nguyễn Hải Lưu - Nguyễn Hùng Sơn: “Tiếp tục phát huy sức mạnh mềm của Việt Nam trong ngoại giao đa phương thời gian tới”, Tạp chí Cộng sản điện tử, ngày 6-12-2023, https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/ hoat-ong-cua-lanh-ao-ang-nha-nuoc/-/2018/841302/view_content
(7) Chỉ số Global Soft Power Index của Tập đoàn Phân tích và Tư vấn BrandFinance có trụ sở tại Vương quốc Anh được dựa trên 3 tiêu chí lớn là uy tín (reputation), sự quen thuộc (familiarity) và ảnh hưởng (influence)
(8) Chỉ số Soft Power 30 là dự án của Trung tâm Ngoại giao công chúng USC (Mỹ) được dựa trên khảo sát theo 6 tiêu chí chính là văn hóa, kinh doanh, giáo dục, sự can dự, kỹ thuật số và nhà nước
(9) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 7, tr. 38
(10) Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 25
(11) Xem: Tô Lâm: “Vươn mình trong hội nhập quốc tế”, Tlđd, tr. 10
(12) Xem: Phạm Minh Chính: “Đổi mới sáng tạo, tăng tốc, bứt phá, đưa đất nước vững bước tiến vào kỷ nguyên vươn mình, phát triển giàu mạnh, văn minh, thịnh vượng của dân tộc”, Tạp chí Cộng sản, số 1.053+1.054, tháng 1-2025, tr. 19 – 20
(12) Việt Nam đảm nhiệm thành công vai trò Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, Chủ tịch luân phiên ASEAN, chủ nhà Hội nghị cấp cao ASEM, thành viên Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc, Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO); đăng cai Hội nghị thượng đỉnh APEC, Diễn đàn Kinh tế thế giới về ASEAN; cử hàng trăm lượt cán bộ, chiến sĩ tham gia lực lượng gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc ở châu Phi.



