25/11/2024 lúc 10:25 (GMT+7)
Breaking News

Phát huy nội lực nền kinh tế tạo đột phá cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa

Bối cảnh thế giới và trong nước có nhiều thay đổi đặt ra yêu cầu Việt Nam phải thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa với một tư duy mới và cách tiếp cận mới, mà trong đó "nội lực" chính là yếu tố then chốt sẽ mang lại đột phá.

Bối cảnh thế giới và trong nước có nhiều thay đổi đặt ra yêu cầu Việt Nam phải thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa với một tư duy mới và cách tiếp cận mới, mà trong đó "nội lực" chính là yếu tố then chốt sẽ mang lại đột phá.

Hội thảo chuyên đề là một trong chuỗi sự kiện thuộc Diễn đàn cấp cao và Triển lãm Quốc tế về Công nghiệp 4.0 (Industry Summit 4.0) lần thứ ba, diễn ra từ ngày 9/11 đến ngày 6/12/2021

Kiên trì mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa 

Phát biểu tại Hội thảo chuyên đề “Tư duy và cách tiếp cận mới về công nghiệp hóa, hiện đại hóa đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045”, TS. Nguyễn Đức Hiển - Phó Trưởng Ban Kinh tế Trung ương khẳng định trong những năm qua, chủ trương, đường lối về đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đã được Việt Nam quan tâm, thực hiện xuyên suốt. Nội hàm, nội dung về công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước không ngừng được bổ sung, hoàn thiện qua từng kỳ Đại hội Đảng. 

Qua 35 năm đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Việt Nam đã có bước chuyển đổi sâu sắc từ một quốc gia kém phát triển, thu nhập bình quân đầu người thấp trở thành nước thuộc nhóm các quốc gia có thu nhập trung bình, vị thế trên trường quốc tế ngày càng được cải thiện và được đánh giá cao.

Trong đó, ngành công nghiệp đã đạt được một số thành tựu nhất định. Công nghiệp chế biến chế tạo ngày càng khẳng định vai trò quan trọng trong nền kinh tế, với mức đóng góp trong GDP tăng từ 13% năm 2010 lên 16,7% năm 2020. Cơ cấu ngành công nghiệp đã chuyển biến tích cực theo hướng giảm dần tỉ trọng các ngành thâm dụng tài nguyên, các ngành công nghệ thấp, tăng dần tỷ trọng các ngành công nghệ trung bình và công nghệ cao.

Năng lực cạnh tranh công nghiệp đã được cải thiện đáng kể. Báo cáo cạnh tranh công nghiệp của UNIDO đã đưa Việt Nam từ nhóm “các nền kinh tế đang phát triển” lên nhóm “các nền kinh tế công nghiệp mới nổi”. Xếp hạng năng lực cạnh tranh toàn cầu của ngành công nghiệp Việt Nam đã tăng từ vị trí 58 (năm 2015) lên vị trí 42 (năm 2019). 

Tuy vậy, theo Thứ trưởng Bộ Công Thương Đỗ Thắng Hải, quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong giai đoạn vừa qua vẫn còn gặp những khó khăn, trở ngại cần tháo gỡ trong giai đoạn tới:

Thứ nhất, nội lực của nền công nghiệp trong nước còn yếu, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp công nghiệp trong nước chưa cao, giá trị gia tăng tạo ra trong nước còn thấp, nền công nghiệp chủ yếu phụ thuộc vào các nguồn lực bên ngoài (vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, phụ tùng linh kiện, nguyên liệu nhập khẩu…); 

Thứ hai, nguồn nhân lực công nghiệp còn yếu kém, tỉ lệ lao động đã qua đào tạo thấp, thiếu tính liên kết giữa khu vực sản xuất với các cơ sở đào tạo, đội ngũ lãnh đạo các doanh nghiệp công nghiệp còn thiếu kinh nghiệm cạnh tranh trên thị trường toàn cầu, thiếu nền tảng lý thuyết khoa học về quản trị sản xuất, không có cơ hội tiếp cận với các phương pháp quản lý sản xuất hiệu quả; 

Thứ ba, trình độ công nghệ của doanh nghiệp công nghiệp trong nước còn hạn chế, khảo sát của Bộ Công Thương thực hiện năm 2018 về mức độ sẵn sàng của các ngành công nghiệp Việt Nam trước Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (CMCN4.0) cho thấy đa số các doanh nghiệp Việt Nam đang đứng ngoài cuộc CMCN4.0, doanh nghiệp công nghiệp Việt Nam tiếp cận ở mức thấp đối với tất cả các trụ cột của một nền sản xuất thông minh. Đến nay, vấn đề này đã có những chuyển biến tích cực, tuy nhiên vẫn còn chậm; nội lực của doanh nghiệp còn hạn chế; chính sách hỗ trợ của nhà nước chưa nhiều và chưa thực sự đáp ứng được nhu cầu của doanh nghiệp. Đặc biệt, đại dịch Covid-19 trong 2 năm gần đây cũng ảnh hưởng nhiều đến quá trình này.

Thứ tư, sản xuất công nghiệp gặp nhiều khó khăn về tiếp cận vốn, bản chất của khu vực sản xuất đòi hỏi lượng vốn đầu tư lớn dài hạn, trong khi nguồn lực xã hội đầu tư vào sản xuất rất hạn chế do thời gian thu hồi vốn chậm, lợi nhuận biên kém hấp dẫn so với đầu tư vào lĩnh vực khác như bất động sản, tài chính. 

Nguyên nhân của những điểm nghẽn trên trước hết là do thiếu khung pháp lý, cơ chế chính sách hoàn chỉnh, đồng bộ và hấp dẫn để có thể hỗ trợ các doanh nghiệp công nghiệp trong nước nâng cao năng lực cạnh tranh, đổi mới công nghệ, lớn mạnh để trở thành động lực quan trong cho phát triển đất nước; thiếu tính liên kết giữa khu vực doanh nghiệp trong nước với khu vực FDI và thị trường thế giới để có thể tận dụng cơ hội tiếp cận chuyển giao công nghệ, tiếp cận với các phương pháp quản trị sản xuất hiện đại, hiệu quả; thiếu tính định hướng về phân bổ nguồn lực xã hội từ trung ương đến địa phương và khu vực tư nhân khiến cho các dòng vốn đầu tư không đi vào khu vực sản xuất, không tạo ra được của cải vật chất, mang lại sự thịnh vượng cho đất nước.  

Nội lực là yếu tố mang lại đột phá

Việt Nam đã xác định mục tiêu đến năm 2025 là nước đang phát triển có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp; đến năm 2030 phấn đấu là nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến năm 2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao. Để thực hiện các mục tiêu đó, một trong những nhiệm vụ then chốt được Nghị quyết Đại hội Đảng XIII xác định là “Tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa dựa trên nền tảng của khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và những thành tựu công nghệ của cách mạng công nghiệp lần thứ tư”, và “Cơ cấu lại công nghiệp, nâng cao trình độ công nghệ, đẩy mạnh chuyển đổi sang công nghệ số, nâng cao tính tự chủ của nền kinh tế, có khả năng tham gia sâu, có hiệu quả vào các chuỗi giá trị toàn cầu”. 

“Mục tiêu đặt ra cho 2025 khá thách thức, đòi hỏi sự nỗ lực vượt bậc và sự vào cuộc của tất cả các bên liên quan, cũng như những đột phá về hệ thống chính sách hỗ trợ để có thể thúc đẩy tăng trưởng công nghiệp chế biến chế tạo một cách mạnh mẽ, để trong vòng 5 năm, tỷ trọng công nghiệp chế biến chế tạo trong GDP tăng từ 16,7% năm 2020 lên 25% năm 2025”, Thứ trưởng Đỗ Thẳng Hải nhận định.

Các chuyên gia cho rằng, giai đoạn chiến lược tới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa được đặt trong bối cảnh rất mới. Trên thế giới, cục diện kinh tế - chính trị toàn cầu vẫn tiếp tục diễn biến theo hướng đa cực, đa trung tâm. Chủ nghĩa bảo hộ, chủ nghĩa dân tộc trong quan hệ quốc tế gia tăng, cùng bối cảnh nền kinh tế tổn thương sau đại dịch Covid-19 khiến nhiều quốc gia đã và đang điều chỉnh chiến lược phát triển theo hướng gia tăng tính tự chủ của các ngành kinh tế. Khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và CMCN4.0 đang diễn biến rất nhanh, đột phá và tác động sâu rộng, đa chiều trên phạm vi toàn cầu, làm thay đổi căn bản tư duy về công nghiệp hóa, hiện đại hóa. 

Ở trong nước, xu hướng thay đổi về cơ cấu dân số với quy mô thị trường năng động 100 triệu dân, tầng lớp trung lưu đang ngày càng mở rộng và cơ cấu dân số vàng vẫn duy trì trong vòng 20 năm tới; trong khi đó, chi phí lao động và đất đai ngày càng kém cạnh tranh so với các nước mới nổi, cạnh tranh ngay tại sân nhà ngày càng gia tăng do nền kinh tế đã hội nhập sâu với toàn cầu, độ mở nền kinh tế lớn. 

Rõ ràng, bối cảnh mới này đặt ra yêu cầu Việt Nam phải thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa với một tư duy mới và cách tiếp cận mới mang tính đột phá hơn.

Thứ nhất, chuyển đổi tư duy phát triển từ phụ thuộc vào nguồn lực từ bên ngoài sang sang chủ động phát triển nội lực, đẩy mạnh sáng tạo, vươn lên làm chủ công nghệ, phục vụ cho nền công nghiệp nước nhà;

Thứ hai, chuyển đổi mạnh mẽ cơ cấu công nghiệp, đẩy mạnh chuyển đổi số trong sản xuất để trở thành động lực nâng cao năng suất, hiệu quả sản xuất; 

Thứ ba, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa phải đặt trong xu thế phát triển công nghiệp toàn cầu nhưng cũng phải phù hợp với hiện trạng phát triển và nền tảng công nghiệp trong nước. 

Như vậy, hướng tiếp cận công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong giai đoạn tới phải là vừa xây dựng nội lực trong nước về các công nghệ sản xuất nền tảng, vừa đẩy mạnh ứng dụng công nghệ của CMCN4.0 (chủ yếu là công nghệ số) vào sản xuất nhằm tối ưu hóa nguồn lực, nâng cao năng suất, hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp công nghiệp.

Về phía mình, với tư duy và cách tiếp cận mới về công nghiệp hóa, hiện đại hóa, trong thời gian tới, định hướng chiến lược của Bộ Công Thương sẽ tập trung vào một số nhiệm vụ chính:

Thứ nhất, hoàn thiện hệ thống pháp lý, chính sách, văn bản quy phạm pháp luật tạo động lực cho phát triển công nghiệp bền vững, giải quyết những điểm nghẽn, khơi thông các nguồn lực cho phát triển công nghiệp.

Thứ hai, sử dụng hợp lý nguồn lực để phát triển công nghiệp bền vững, hiệu quả, gắn với bảo vệ môi trường, tăng trưởng xanh, trên nguyên tắc dựa trên lợi thế của đất nước, hình thành chuỗi cung ứng trong nước; nâng cao năng lực và tính chủ động của các địa phương, tăng cường liên kết giữa các địa phương, các vùng; thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu nội ngành công nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và mức độ thông minh.

Thứ ba, hỗ trợ nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp công nghiệp, chú trọng phát triển nguồn nhân lực công nghiệp và khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo gắn với thực tiễn, với nhu cầu doanh nghiệp công nghiệp trong nước, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ số, chuyển đổi số trong doanh nghiệp công nghiệp hướng đến mô hình nhà máy thông minh, phát triển doanh nghiệp công nghiệp tư nhân thực sự trở thành động lực quan trọng cho phát triển đất nước.

Thứ tư, tăng cường liên kết giữa doanh nghiệp trong nước với khu vực FDI và thị trường toàn cầu nhằm tận dụng tốt cơ hội từ các hiệp định tự do thương mại, từ cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư nhằm đưa doanh nghiệp công nghiệp trong nước tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu.

"Bộ Công Thương xác định một trong những nhiệm vụ quan trọng là cần phải xây dựng được các chiến lược, kế hoạch phát triển và tái cơ cấu ngành Công Thương trong giai đoạn mới gắn với định hình lại các trọng tâm ưu tiên và động lực phát triển. Trong đó, xác định khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực là nền tảng. Thu hút đầu tư FDI có chọn lọc, gắn kết doanh nghiệp vào chuỗi cung ứng, phát huy yếu tố nội lực của nền kinh tế với trọng tâm là các doanh nghiệp Việt. 

Mặt khác, cần tiếp tục tập trung nghiên cứu, hoàn thiện các chính sách và giải pháp quản lý nhà nước theo hướng tạo lập môi trường cạnh tranh công bằng, bình đẳng. Bổ sung thêm nhiều chính sách, cơ chế hỗ trợ doanh nghiệp, trước hết là các doanh nghiệp đầu tàu trong từng lĩnh vực để kéo theo sự phát triển của cộng đồng doanh nghiệp vừa và nhỏ.

Về phía mình, các doanh nghiệp cần xác định rõ tầm quan trọng và tính cấp thiết của việc hướng tới công nghiệp 4.0, không chỉ là đưa công nghệ nào vào ứng dụng trong sản xuất kinh doanh, mà cần nhìn yếu tố điều kiện tác động đến sự tồn tại, sống còn của doanh nghiệp mà bắt buộc phải hướng tới".

Thứ trưởng Bộ Công Thương Đỗ Thắng Hải.