07/12/2025 lúc 02:14 (GMT+7)
Breaking News

Nông dân Việt Nam: Hiện tại và tương lai

Tóm tắt:

Bài viết phân tích toàn diện thực trạng hộ nông dân Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, những thay đổi về cơ cấu lao động, quy mô đất đai, tích lũy tài chính, trình độ học vấn và mức độ tham gia liên kết sản xuất. Việt Nam hiện có hơn 9,1 triệu hộ nông dân sản xuất nhỏ, chiếm khoảng 49% số hộ nông thôn, song phần lớn vẫn sản xuất manh mún, thiếu liên kết và gặp khó khăn trong tiếp cận vốn, khoa học – công nghệ và thị trường. Tình trạng già hóa lực lượng lao động, trình độ học vấn thấp và khả năng tích lũy hạn chế đang là rào cản lớn đối với năng suất và hiệu quả sản xuất nông nghiệp.
Bài viết cũng phân tích các xu hướng và yếu tố ảnh hưởng trong tương lai như biến đổi khí hậu, già hóa dân số nông nghiệp, cách mạng công nghiệp 4.0, và các rào cản thương mại toàn cầu. Trên cơ sở đó, bài viết đề xuất ba nhóm chính sách trọng tâm: (i) tăng cường đào tạo và phát triển vốn nhân lực nông nghiệp; (ii) tạo điều kiện cho nông dân tự tích lũy, chủ động đầu tư và mở rộng quy mô sản xuất; (iii) thúc đẩy phát triển hợp tác xã, doanh nghiệp nông nghiệp và liên kết chuỗi giá trị nhằm khắc phục sản xuất nhỏ lẻ, nâng cao năng suất và khả năng cạnh tranh. Kết quả nghiên cứu là cơ sở khoa học và thực tiễn quan trọng cho việc hoạch định chính sách phát triển nông dân, nông thôn và nông nghiệp bền vững ở Việt Nam giai đoạn tới.

Từ khóa:

Hộ nông dân; sản xuất nhỏ; hợp tác xã; vốn nhân lực; liên kết chuỗi giá trị; nông nghiệp bền vững.

Ảnh minh họa - TL

1. Giới thiệu

Việt Nam hiện có lực lượng lao động nông nghiệp đông đảo, với nông dân chiếm hơn một phần ba dân số cả nước và 49,17% hộ gia đình nông thôn, tương đương hơn 9,1 triệu hộ gia đình sản xuất nhỏ. Cả nước sở hữu khoảng 28 triệu ha đất nông nghiệp, trong đó cơ cấu nông nghiệp manh mún, nhỏ lẻ này là một rào cản lớn đối với ngành nông nghiệp Việt Nam và đặt ra những thách thức đáng kể cho việc chuyển đổi sang mô hình sản xuất tập trung và quy mô lớn hơn. Sự manh mún về cơ cấu này về cơ bản làm giảm hiệu quả kinh tế, cản trở việc áp dụng các đổi mới khoa học công nghệ và làm suy yếu sức cạnh tranh toàn cầu của nông sản Việt Nam.

Ngành nông nghiệp Việt Nam đã nỗ lực khắc phục những hạn chế của sản xuất nhỏ lẻ, manh mún trong nhiều năm qua. Việc phụ thuộc quá nhiều vào các phương pháp thâm canh đầu vào, cùng với quy trình sản xuất không đồng nhất giữa các hộ nông dân đã dẫn đến sự thiếu đồng bộ về chất lượng và tiêu chuẩn sản phẩm và đặt ra những thách thức đáng kể cho các doanh nghiệp muốn thu mua và phân phối khối lượng lớn nông sản với chất lượng ổn định và tiêu chuẩn hóa. Điều này đã dẫn đến tình trạng một số hộ nông dân nhỏ có thể bán được sản phẩm của mình trong khi những hộ khác thì không, làm suy yếu khả năng cạnh tranh của nông sản Việt Nam và hạn chế tiềm năng tạo thu nhập của nông dân. Do đó, nông dân nhỏ lẻ cần hợp tác và điều chỉnh sản xuất theo các tiêu chuẩn chung, đồng thời tăng cường kết nối với doanh nghiệp và thị trường. Bài viết này đánh giá thực trạng nông dân nhỏ tại Việt Nam hiện nay, dự đoán bối cảnh tương lai và hộ nông dân trong tương lai và đưa ra các đề xuất chính sách giúp nông dân hợp tác, kết nối với các trang trại, hợp tác xã và doanh nghiệp nông nghiệp lớn hơn tham gia tích cực, hiệu quả vào các hoạt động sản xuất và kinh doanh trong tương lai, từ đó giải quyết vấn đề sản xuất nông nghiệp manh mún và kém hiệu quả tại Việt Nam.

2. Thực trạng hộ nông dân Việt Nam hiện nay

Hiện nay, khoảng 65% dân số Việt Nam sống ở nông thôn, phần lớn là nông dân - lực lượng lao động đáng kể chủ yếu tham gia vào nông nghiệp, bao gồm lâm nghiệp, ngư nghiệp và sản xuất muối. Quá trình đô thị hóa, công nghiệp hóa và hiện đại hóa đã dẫn đến sự suy giảm cả về số lượng nông dân - cả về tỷ lệ dân số và tổng số - trong cơ cấu lao động và nhân khẩu học quốc gia. Từ năm 2015 đến nay, lực lượng lao động nông nghiệp đã giảm khoảng 9%, phản ánh sự chuyển dịch đáng kể và tích cực trong cơ cấu lao động từ nông nghiệp sang các ngành khác như công nghiệp và dịch vụ. Các hoạt động nông nghiệp truyền thống như trồng trọt và chăn nuôi tiếp tục phát triển, được thúc đẩy bởi sự chuyển đổi cơ cấu trong các hệ thống nông nghiệp và được hỗ trợ bởi những cải thiện về năng suất, chất lượng, tính đa dạng và sản lượng - nhờ vào những tiến bộ của khoa học và công nghệ và nhu cầu của thị trường hiện đại. Một bộ phận nông dân đã mở rộng sang sản xuất thủ công mỹ nghệ và duy trì các làng nghề truyền thống. Những người khác đã chuyển sang các hoạt động dịch vụ nông nghiệp ở nông thôn - chẳng hạn như kinh doanh nhiên liệu, phân bón và thuốc trừ sâu, bán thức ăn chăn nuôi, quản lý máy xay xát quy mô nhỏ hoặc chỉ huy các đội thợ mộc và xây dựng. Ở các vùng sâu vùng xa và miền núi, một bộ phận dân số làm nông nghiệp vẫn sống theo nền kinh tế tự cung tự cấp.

Nông sản Việt Nam hiện đã được xuất khẩu sang 196 quốc gia và vùng lãnh thổ. Kim ngạch xuất khẩu nông sản tăng trưởng bình quân 8%/năm, đạt 62,5 tỷ USD vào năm 2024. Tỷ lệ hộ nghèo ở nông thôn giảm bình quân từ 1% đến 1,5%/năm. Tính đến năm 2024, Việt Nam có khoảng 13,7 triệu lao động nông nghiệp, chiếm hơn 26,5% lực lượng lao động cả nước. Tuy nhiên, sản xuất nông nghiệp vẫn còn phân mảnh cao: trung bình mỗi hộ gia đình canh tác 2,8 thửa ruộng, với diện tích mỗi thửa ruộng trung bình là 2.026,3 mét vuông. Thu nhập bình quân đầu người hàng tháng ở nông thôn chỉ đạt 4,5 triệu đồng, thấp hơn đáng kể so với mức 6,89 triệu đồng ở khu vực thành thị .

Theo Tổng cục Thống kê (GSO), sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản ở Việt Nam chủ yếu được tổ chức theo ba hình thức: hộ cá thể, hợp tác xã và doanh nghiệp. Tính đến ngày 31 tháng 12 năm 2019 (đối với hợp tác xã và doanh nghiệp) và ngày 01 tháng 7 năm 2020 (đối với hộ nông nghiệp), cả nước có tổng cộng 9.123.018 đơn vị sản xuất nông nghiệp - giảm 1,82% so với năm 2016. Trong đó, 9.108.129 đơn vị sản xuất hộ (giảm 1,86%), 7.418 hợp tác xã (tăng 6,80%) và 7.471 doanh nghiệp (tăng 94,25%). Sự dịch chuyển về số lượng đơn vị sản xuất tăng hay giảm này xuất phát từ cả các yếu tố khách quan và chủ quan, phản ánh những nỗ lực tổ chức lại cơ cấu sản xuất, với trọng tâm chiến lược là thúc đẩy các mô hình và quy mô sản xuất mang lại năng suất, chất lượng, hiệu quả và giá trị thương mại cao hơn.

Hộ gia đình đóng vai trò là đơn vị kinh tế cơ bản trong sản xuất nông, lâm, thủy sản của Việt Nam. Trong những năm gần đây, để nâng cao cả về số lượng và chất lượng hàng hóa nông, lâm, thủy sản phục vụ tiêu dùng trong nước và xuất khẩu, nhiều hộ gia đình đã mở rộng quy mô sản xuất. Số thửa đất nông nghiệp bình quân/hộ tăng từ 2,5 thửa năm 2016 lên 2,8 thửa năm 2020, diện tích bình quân/thửa tăng từ 1.843,1 m2 lên 2.026,3 m2. Trong giai đoạn 5 năm (2016–2020), số thửa đất nông nghiệp bình quân/hộ tăng 12%, diện tích bình quân/thửa tăng 9,94% và diện tích đất nông nghiệp bình quân/hộ tăng 12,31%. Tính đến năm 2020, trung bình mỗi hộ gia đình sở hữu 2,19 con trâu (tăng 3,47% so với năm 2016), 2,89 con bò (tăng 8,49%) và 54,11 con gà (tăng 38,52%).

Với quy mô sản xuất nhỏ lẻ, phân tán, các hộ nông dân ở Việt Nam ít liên kết với nhau trong các tổ chức kinh tế hợp tác và cũng ít liên kết với doanh nghiệp hơn so với hầu hết các nước trong khu vực. Ước tính, Việt Nam có hơn 9 triệu hộ nông dân và 5 triệu hộ kinh doanh (cũng chủ yếu ở nông thôn), tham gia vào hơn 30.000 hợp tác xã, trong đó có gần 13.800 hợp tác xã nông nghiệp năm 2018. Các hợp tác xã nông nghiệp chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực hỗ trợ cung cấp vật tư đầu vào và chỉ có khoảng 20% tham gia vào khâu tiêu thụ, chế biến nông sản. Phần lớn nông dân vẫn tự làm hoặc dựa vào các hộ kinh doanh để tiêu thụ sản phẩm và cung cấp các dịch vụ sản xuất như làm đất, bảo vệ thực vật, thu hoạch nông sản, v.v

Sản xuất nhỏ lẻ tạo nên vòng luẩn quẩn khó tiếp cận vốn vay từ các tổ chức tín dụng, khó tiếp cận khoa học công nghệ, khả năng phòng ngừa rủi ro hạn chế, chi phí sản xuất kinh doanh tăng cao, khó tiếp cận thị trường, năng lực đàm phán và kết nối với doanh nghiệp hạn chế, khó áp dụng các tiêu chuẩn thống nhất và thực hiện truy xuất nguồn gốc, do đó không thể hình thành các vùng sản xuất chuyên canh lớn, không thể tạo ra các thương hiệu uy tín... Nông dân cũng nằm trong số những nhóm dễ bị tổn thương nhất trong sản xuất: 73,8% hộ gia đình gặp phải các cú sốc liên quan đến thiên tai hoặc dịch bệnh, trong khi 21,2% phải đối mặt với các cú sốc kinh tế. Hầu hết nông dân thiếu năng lực và tư duy định hướng thị trường cần thiết để lựa chọn sản phẩm, công nghệ và phương pháp chế biến phù hợp, thay vào đó dựa vào các tập quán và xu hướng sản xuất truyền thống. Mô hình sản xuất dựa trên hộ gia đình và lấy hộ gia đình làm trung tâm này dẫn đến năng suất lao động thấp.

Lao động trong nông nghiệp, nông thôn đang già hóa, trình độ thấp

Theo Điều tra Lao động Việc làm năm 2022 của Tổng cục Thống kê, có sự chênh lệch đáng kể về phân bố độ tuổi của lực lượng lao động giữa khu vực thành thị và nông thôn tại Việt Nam. Tỷ lệ nhóm lao động trẻ (15-24 tuổi) và nhóm lao động cao tuổi (từ 50 tuổi trở lên) ở khu vực thành thị thấp hơn so với khu vực nông thôn. Ngược lại, tỷ lệ dân số trong độ tuổi lao động cốt lõi (25–49 tuổi) ở khu vực thành thị cao hơn ở khu vực nông thôn. Điều này cho thấy lực lượng lao động chính ở khu vực nông thôn đang giảm dần, cùng với tỷ lệ lao động lớn tuổi ngày càng tăng. Mặc dù nhóm lao động lớn tuổi này có nhiều kinh nghiệm trong nông nghiệp, nhưng họ có xu hướng thiếu năng lực thể chất và khả năng áp dụng các công nghệ sản xuất hiện đại. Nguồn lao động địa phương trong nông nghiệp đang trở nên cực kỳ khan hiếm, đặc biệt là về lao động nông nghiệp chất lượng cao. Một trong những lý do chính khiến ngành nông nghiệp gặp khó khăn trong việc thu hút lao động trẻ là do bản chất của công việc nông nghiệp - đòi hỏi nhiều thể lực và thu nhập thấp. Trong khi đó, lao động phổ thông làm việc tại các khu công nghiệp có thu nhập bình quân hàng tháng là 6–7 triệu đồng, có thể tăng lên 10–15 triệu đồng mỗi tháng nếu làm thêm giờ.

Theo khảo sát của IPSARD (2023), bình quân các hộ nông nghiệp, có khoảng 4,27 thành viên trên mỗi hộ, với 1,86 thành viên chủ yếu làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp. Cơ cấu tuổi của chủ hộ nông dân cho thấy lực lượng lao động nông thôn đang già hóa, với tỷ lệ đáng kể chủ hộ trên 60 tuổi ở cả ba ngành sản xuất. Trong lĩnh vực nông nghiệp, nhóm chủ hộ từ 30 đến 60 tuổi chiếm tỷ lệ cao nhất (74,29%), cho thấy đây là nhóm tuổi chủ yếu đảm nhiệm vai trò quản lý sản xuất nông nghiệp. Tuy nhiên, tỷ lệ chủ hộ trên 60 tuổi cũng chiếm khoản 20%, phản ánh sự già hóa của lực lượng lao động nông nghiệp. Riêng ngành chăn nuôi và nuôi trồng thủy sản, hoàn toàn không có chủ hộ nào dưới 30 tuổi, và tỷ lệ người trên 60 tuổi lên tới 33,33%. Điều này cho thấy những ngành này ít có khả năng thu hút lao động trẻ và phụ thuộc nhiều vào lao động lớn tuổi. Một số nguyên nhân chính gây ra tình trạng này bao gồm: Chuyển dịch lao động trẻ sang các ngành phi nông nghiệp như công nghiệp, dịch vụ - nơi có thu nhập và điều kiện làm việc hấp dẫn hơn; Thu nhập từ nông nghiệp còn thấp, không ổn định, chưa tạo được động lực để giữ chân lao động trẻ ở nông thôn; Môi trường lao động vất vả, thiếu cơ hội phát triển bản thân và nghề nghiệp, đặc biệt là ở các vùng nông thôn xa trung tâm.

Lực lượng lao động nông nghiệp chủ yếu có trình độ học vấn thấp, với khoảng 70% lao động không được đào tạo nghề chính thức. Chỉ khoảng 9% lực lượng lao động có bằng đại học. Theo Điều tra Lao động Việc làm do Tổng cục Thống kê (GSO), về tỷ lệ lao động có việc làm được đào tạo ở Việt Nam năm 2022, chỉ khoảng 13,3 triệu người được đào tạo chính quy, chiếm 26,3% tổng lực lượng lao động. Tỷ lệ lao động được đào tạo hiện đang làm việc ở khu vực nông thôn thấp hơn đáng kể so với khu vực thành thị. Cụ thể, chỉ có 5,6% lao động nông thôn có trình độ đại học trở lên, so với 22,2% ở khu vực thành thị. Theo điều tra mức sống hộ gia đình của Tổng cục Thống kê (năm 2022), ở khu vực nông thôn, trình độ học vấn phổ biến nhất là tiểu học và trung học cơ sở, chiếm hơn 50% dân số. Tỷ lệ dân số trong độ tuổi lao động ở nông thôn có trình độ trung học phổ thông trở lên (cao đẳng trở lên) chỉ khoảng 30%.

Do thiếu kiến thức khoa học, kỹ năng quản lý sản xuất và thông tin thị trường, nông dân thường gặp khó khăn trong việc đưa ra quyết định có thể cải thiện hiệu quả sản xuất, hoạt động kinh doanh và mức thu nhập. Do đó, nhiều nông dân phải vật lộn với sự không chắc chắn về thị trường - không chắc chắn về việc bán sản phẩm của mình cho ai, bán ở đâu, giá cả sẽ như thế nào và đóng gói chúng như thế nào. Hơn nữa, xu hướng di cư lao động trẻ khỏi các vùng nông thôn đang diễn ra nhanh chóng, để lại một lực lượng lao động nông nghiệp già hóa, không được đào tạo đầy đủ và không thể đáp ứng được nhu cầu phát triển đang thay đổi. Tỷ lệ người cao tuổi sống ở nông thôn là 7,2%, tương đương với khoảng 7,7 triệu người, gấp đôi số người cao tuổi sống ở khu vực thành thị. Điều kiện sống vật chất của họ vẫn còn nhiều thách thức và nhóm nhân khẩu học này sẽ tiếp tục tăng khi hàng triệu công nhân hết tuổi làm việc trong ngành công nghiệp trở về các vùng nông thôn . Có thể thấy, chất lượng nguồn nhân lực là rào cản và thách thức lớn nhất trong phát triển nông nghiệp, nông dân và nông thôn trong thời gian tới.

Tích lũy của nông dân thấp, khó tiếp cận vốn tài chính

Những năm gần đây, các chính sách cải cách nông nghiệp và nông thôn đã làm thay đổi diện mạo nông thôn, mang lại những cải thiện đáng kể về thu nhập và đời sống cho đại đa số nông dân. Một số hộ nông dân đã trở nên khá giả, thậm chí giàu có nhờ sản xuất và kinh doanh nông sản. Tuy nhiên, thu nhập tăng trưởng chậm, trong khi chi tiêu hộ gia đình lại tăng, dẫn đến lượng tiết kiệm thực tế của nông dân rất hạn chế. Với nguồn vốn tích lũy thấp và tiếp tục gặp khó khăn trong việc tiếp cận tín dụng - do thủ tục và yêu cầu tài sản thế chấp phức tạp - nông dân phải đối mặt với những thách thức lớn trong việc tự đầu tư để mở rộng sản xuất, nâng cao tay nghề, hoặc ứng phó với những cú sốc giá cả, rủi ro thời tiết và dịch bệnh.

Mặc dù thu nhập hộ gia đình đã tăng, tốc độ tăng trưởng thu nhập từ nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản vẫn còn tương đối chậm. Theo Tổng cục Thống kê, thu nhập bình quân đầu người hàng năm của hộ gia đình nông thôn đã tăng đáng kể từ 2014 đến 2024, từ hơn 24,5 triệu đồng lên khoảng 54 triệu đồng

Thu nhập bình quân 1 người/năm khu vực nông thôn theo giá hiện hành năm 2014- 2024

Nguồn: Tính toán từ VHLSS 2024, Cục Thống kê

Năm 2024, thu nhập bình quân đầu người/tháng từ tiền lương, tiền công tại khu vực nông thôn đạt 2,23 triệu đồng, thu nhập từ nông, lâm nghiệp và thủy sản đạt 0,78 triệu đồng (tăng 12,4 điểm phần trăm so với năm 2023), thu nhập từ hoạt động phi nông, lâm nghiệp và thủy sản đạt 0,95 triệu đồng, thu nhập từ các nguồn khác đạt 0,53 triệu đồng.

Cơ cấu thu nhập ở khu vực nông thôn đang chuyển dịch theo hướng giảm dần tỷ trọng thu từ lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp. Tỷ trọng thu nhập từ các hoạt động này giảm từ 33,4% năm 2010 xuống còn 17,5% năm 2024. Ngược lại, tỷ trọng thu nhập từ các hoạt động phi nông, lâm, ngư nghiệp - cũng như từ tiền lương, tiền công - tiếp tục tăng so với các năm 2019, 2020 và 2021.

Cơ cấu thu nhập bình quân đầu người/tháng ở khu vực nông thôn, phân theo nguồn thu nhập (%)

Nguồn: Cục Thống kê 2024

Theo khảo sát về Nông hộ của IPSARD (2024), xét về cơ cấu thu nhập của hộ nông dân lĩnh vực trồng trọt, hộ có thu nhập từ 50-100 triệu đồng/năm chiếm tỷ trọng cao nhất (32,39%), tiếp theo là nhóm có thu nhập trên 200 triệu đồng (26,76%). Tuy nhiên, vẫn còn tới 15,49% hộ nông dân có thu nhập dưới 50 triệu đồng, phản ánh sự tồn tại của phân khúc sản xuất quy mô nhỏ, hiệu quả thấp. Trong ngành chăn nuôi, cơ cấu thu nhập cũng tương đối phân tán, trong đó nhóm có thu nhập 50-100 triệu đồng/năm chiếm tỷ trọng cao nhất (38,46%), tiếp theo là nhóm trên 200 triệu đồng (26,92%).

Nhìn chung, đa số hộ gia đình có mức tiết kiệm thấp, trong đó 32,03% hộ có mức tiết kiệm dưới 25 triệu đồng/năm và 24,18% thuộc nhóm 25-50 triệu đồng/năm. Chỉ có khoảng 17,65% hộ có mức tiết kiệm trên 150 triệu đồng/năm, phản ánh thực tế đa số hộ nông nghiệp vẫn có mức tiết kiệm khiêm tốn.

Hợp tác, liên kết trong sản xuất nông nghiệp còn yếu

Nếu nông dân muốn mở rộng quy mô sản xuất, họ phải hợp tác với nhau để tuân theo một quy trình chuẩn hóa, cùng nhau bán với số lượng lớn để tăng khả năng mặc cả về giá cả và cùng nhau tổ chức các hoạt động dịch vụ để tạo thêm thu nhập - không chỉ vì lợi ích của riêng họ mà còn vì cộng đồng rộng lớn hơn. Khảo sát về Lợi nhuận Lúa gạocủa IPSARD (2023) cho thấy các hộ trồng lúa tham gia liên kết sản xuất có xu hướng mở rộng quy mô sản xuất và đạt sản lượng cao hơn so với các hộ không tham gia liên kết.

Diện tích canh tác và năng suất lúa bình quân của nông dân năm 2022 theo mức độ tham gia liên kết sản xuất

Chỉ số

Liên kết sản xuất

Không tham gia

Có tham gia

Diện tích canh tác (ha)

Vụ đông xuân

1,16

3.18

Vụ hè - thu

1,55

3.26

Vụ thu - đông

1.10

3.24

Tổng diện tích

2,42

7.30

Năng suất (tạ)

Vụ Đông - Xuân

71,12

223,33

Vụ hè - thu

96,66

210,58

Vụ thu - đông

70,71

196.08

Nguồn: Phân tích từ Khảo sát lợi nhuận, IPSARD, 2023

Việc mở rộng hợp tác và liên kết sản xuất mang lại lợi ích không chỉ cho nông dân mà còn cho tất cả các bên liên quan. Hơn nữa, khi các hộ nông dân có kiến thức phù hợp, đầu tư vào sản xuất và áp dụng khoa học công nghệ, họ có xu hướng đạt hiệu quả sản xuất cao hơn và lợi nhuận được cải thiện.

Tuy nhiên, kết quả khảo sát Nông hộ tại 6 tỉnh nghiên cứu (2024) cho thấy tỷ lệ tham gia liên kết hợp tác xã trong sản xuất nông nghiệp của hộ nông dân quy mô nhỏ còn khiêm tốn. Các hình thức liên kết sản xuất của hộ nông dân sản xuất nhỏ có sự khác biệt đáng kể giữa các ngành. Trong đó, liên kết với hợp tác xã (HTX) là hình thức phổ biến nhất với tỷ lệ 27,59%, đặc biệt nổi bật trong lĩnh vực nuôi trồng thủy sản (33,33%) và trồng trọt (29,86%). Ngược lại, liên kết với doanh nghiệp chiếm tỷ lệ rất thấp (2,87%). Sự phân bố này phản ánh thực tế là các hợp tác xã đang đóng vai trò chủ đạo trong việc kết nối các hộ sản xuất nhỏ, trong khi liên kết với doanh nghiệp vẫn còn rất hạn chế, đặc biệt là trong các lĩnh vực đòi hỏi vốn đầu tư lớn và rủi ro cao như chăn nuôi.

Các đối tượng liên kết sản xuất được phân loại theo ngành sản xuất (Đơn vị: %)

Lĩnh vực

Liên kết đến doanh nghiệp

Liên kết với hợp tác xã

Kết nối các hộ gia đình với nhau

Trồng trọt

3,47

29,86

13,88

Chăn nuôi

0,00

14,81

18,51

Nuôi trồng thủy sản

0,00

33,33

0,00

Tổng cộng

2,87

27,58

14.36

Nguồn: Tính toán từ dữ liệu khảo sát nông dân (2024)

Ngoài ra, theo kết quả khảo sát về Nông hộ (2024), sự tham gia của nông dân vào các tổ chức chính trị - xã hội có sự khác biệt đáng kể giữa các ngành sản xuất. Đáng chú ý, Hội Nông dân là tổ chức có tỷ lệ hộ nông dân tham gia cao nhất (86,21%), trong đó ngành thủy sản đạt 100%, tiếp theo là ngành trồng trọt (86,81%) và ngành chăn nuôi (81,48%). Có sự khác biệt đáng kể trong nhận thức về lợi ích của việc tham gia các tổ chức/hiệp hội giữa các nhóm người sản xuất. Đáng chú ý, các hộ nuôi trồng thủy sản đánh giá cao tất cả các loại lợi ích với tỷ lệ 100% ở hầu hết các tiêu chí, trong khi các hộ trồng trọt và chăn nuôi có mức độ đánh giá thấp hơn.

Lợi ích khi tham gia các tổ chức/hiệp hội theo lĩnh vực ( Đơn vị: %)

Nguồn: Tính toán từ dữ liệu khảo sát nông dân (2024)

Tài sản, máy móc phục vụ sản xuất nông nghiệp còn đơn sơ

Về tài sản sản xuất, kết quả khảo sát Nông hộ (2024), có sự khác biệt rõ rệt về tỷ lệ sở hữu và thuê máy móc nông nghiệp giữa các loại thiết bị: Máy bơm nước và máy phun thuốc là hai thiết bị có tỷ lệ sở hữu cao nhất, lần lượt đạt 69,62% và 72,22%, phản ánh nhu cầu sử dụng thường xuyên và liên tục của các hộ nông dân. Tuy nhiên, các thiết bị chuyên dụng như máy gieo hạt và máy gặt chủ yếu được thuê, với tỷ lệ lần lượt là 28,32% và 56,91%, trong khi tỷ lệ sở hữu các thiết bị này rất thấp (1,59% và 0,84%). Đối với các thiết bị trung gian như máy làm đất, máy cắt cỏ và máy phun thuốc/phân bón, có sự cân bằng tương đối giữa sở hữu và thuê. Trong đó, máy làm đất có tỷ lệ thuê cao hơn đáng kể (58,06%) so với sở hữu (35,51%), trong khi máy cắt cỏ có xu hướng ngược lại với 58,06% hộ sở hữu và chỉ có 13,73% thuê.

Tình hình sử dụng và tiếp cận một số máy móc nông nghiệp của hộ gia đình (%)

Loại máy

Sở hữu

Thuê

Máy đào đất

35,51

58.06

Người gieo hạt

1,59

28.32

Máy bơm nước

69,62

22.12

Máy phun

72,22

25,96

Máy phun/phân bón

40,58

26,42

Máy cắt cỏ

58.06

13,73

Máy gặt

0,84

56,91

Nguồn: Tính toán từ dữ liệu khảo sát nông dân (2024)

Những con số này cho thấy các hộ nông dân có xu hướng sở hữu thiết bị được sử dụng thường xuyên với giá cả hợp lý, trong khi lựa chọn thuê thiết bị chuyên dụng, đắt tiền và chỉ sử dụng theo mùa.

Sử dụng tài nguyên thiên nhiên chưa hiệu quả ở nhóm nông hộ nhỏ

Đất đai là tài sản quan trọng đối với nông dân, đóng vai trò là tư liệu sản xuất cơ bản. Tuy nhiên, việc sở hữu đất nông nghiệp của các hộ nông dân vẫn còn manh mún và quy mô nhỏ, cản trở khả năng mở rộng hoạt động và áp dụng những tiến bộ khoa học công nghệ vào sản xuất nông nghiệp. Theo số liệu Tổng điều tra nông lâm thủy sản năm 2020, trong số các hộ tham gia sử dụng đất nông nghiệp: có 42,67% canh tác dưới 0,2 ha, trong khi chỉ có 5,95% số hộ sử dụng đất từ 2 ha trở lên; đối với đất lâm nghiệp, 45,70% hộ quản lý dưới 1 ha và chỉ có 6,93% sở hữu từ 5 ha trở lên; đối với đất nuôi trồng thủy sản, 59,64% hộ sử dụng dưới 0,2 ha, trong khi chỉ có 7,85% có từ 2 ha trở lên. Sự manh mún đất đai lan rộng này tạo ra một hạn chế đáng kể về mặt cấu trúc đối với quá trình hiện đại hóa nông nghiệp, cơ giới hóa và hiệu quả kinh tế theo quy mô.

Theo kết quả khảo sát Nông hộ (2024), sử dụng đất nông nghiệp của hộ nông dân được khảo sát có sự khác biệt giữa các vùng, trong khi các hộ khảo sát ở Miền Nam tập trung phần lớn diện tích đất trồng lúa, phản ánh vai trò là trung tâm sản xuất lúa gạo của cả nước, các hộ nông nghiệp ở Miền Trung sử dụng đất kém đa dạng hơn, trong khi tại miền Bắc, các hộ kết hợp đồng đều hơn giữa đất trồng lúa và đất trồng trọt khác. Các hộ gia đình nghèo, có thu nhập thấp sở hữu phần lớn đất trồng lúa, cho thấy việc có đất không phải lúc nào cũng đồng nghĩa với thu nhập cao hơn - có thể do năng suất thấp hơn, khả năng tiếp cận thị trường kém, hoặc canh tác tự cung tự cấp. Các hộ gia đình giàu và giàu nhất sở hữu diện tích đất trồng lúa nhỏ hơn nhưng sử dụng đất cân bằng và đa dạng hơn, phản ánh sự chuyển dịch sang các nguồn thu nhập khác từ nông nghiệp hoặc phi nông nghiệp có giá trị cao hơn.

6. Bối cảnh và các vấn đề ảnh hưởng đến nông dân sản xuất nhỏ trong tương lai

6.1. Bối cảnh chung và xu hướng tương lai

Bất ổn chính trị và rủi ro từ xung đột quốc tế.

Từ cuối năm 2019, nền kinh tế toàn cầu - bao gồm cả Việt Nam - đã chịu những gián đoạn nghiêm trọng do đại dịch COVID-19 và tiếp tục chịu những tác động tiêu cực từ xung đột chính trị giữa Nga và Ukraine, bắt đầu từ cuối tháng 2 năm 2022. Xung đột này đã gây ra một loạt hậu quả, bao gồm sự sụp đổ của các chuỗi sản xuất và mạng lưới cung ứng toàn cầu, gia tăng rủi ro đối với an ninh lương thực và năng lượng, thiếu hụt nguyên liệu thô thiết yếu cho sản xuất công nghiệp, gián đoạn hệ thống ngân hàng và dịch vụ logistics. Giá cả hàng hóa và lạm phát tăng vọt, trong khi thị trường tài chính và tiền tệ ngày càng biến động, làm gia tăng rủi ro tài chính hệ thống. Để ứng phó với lạm phát tăng cao, các ngân hàng trung ương trên toàn thế giới buộc phải liên tục tăng lãi suất, dẫn đến sức mua của người tiêu dùng và các hoạt động đầu tư suy giảm. Hậu quả là các hoạt động kinh tế - xã hội bị cản trở và gián đoạn, khiến nhiều nền kinh tế quốc gia rơi vào suy thoái và bất ổn. Một số quốc gia hiện đang phải đối mặt với các mối đe dọa đối với an ninh lương thực, kèm theo tỷ lệ nghèo đói gia tăng. Trong bối cảnh này, nông nghiệp và phát triển nông thôn đang phải đối mặt với những thách thức ngày càng gia tăng. Sự gián đoạn trong chuỗi cung ứng đầu vào nông nghiệp đã dẫn đến chi phí phân bón, nguyên liệu thô và nhiên liệu tăng đáng kể. Xuất khẩu nông sản chịu rủi ro cao hơn do gián đoạn giao dịch ngân hàng, chi phí hậu cần tăng cao và tình trạng thiếu tàu chở hàng.

Sự leo thang của các xung đột tài nguyên do phát triển nông nghiệp giữa các quốc gia ngày càng rõ ràng.

Nhu cầu thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và nông nghiệp trong điều kiện tài nguyên hạn hẹp buộc các quốc gia phải tìm cách khai thác các nguồn tài nguyên chung. Các quốc gia thượng nguồn đã khởi xướng và tiếp tục thực hiện các kế hoạch xây dựng nhiều cơ sở hạ tầng thủy lợi và thủy điện, dẫn đến việc hình thành một loạt các đập và thay đổi các ghềnh thác dọc theo sông Mê Kông. Tranh chấp tài nguyên đất đai cũng đang nổi lên ở quy mô quốc tế. Hiện nay, Trung Quốc, cùng với Nhật Bản và Hàn Quốc (hai quốc gia phụ thuộc vào nhập khẩu tới 60% nguồn cung cấp lương thực) đang thuê đất nông nghiệp ở nhiều nơi trên thế giới. Các xung đột về tài nguyên biển, đặc biệt liên quan đến nghề cá và trữ lượng dầu khí, cũng diễn ra gay gắt giữa các quốc gia.

Sự tiến bộ của khoa học công nghệ, cùng với Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư (CMCN 4.0), mang đến cả cơ hội và thách thức to lớn cho ngành nông nghiệp Việt Nam.

Sự phát triển ngày càng tăng của khoa học công nghệ và việc ứng dụng các nền tảng số trong CMCN 4.0 tạo điều kiện cho ngành nông nghiệp áp dụng các công nghệ tiên tiến, đầu vào thế hệ mới, các giải pháp thích ứng trong bối cảnh đại dịch, phương pháp canh tác bền vững và ứng dụng công nghệ thông tin. Những đổi mới này góp phần nâng cao năng suất lao động và năng lực cạnh tranh của ngành nông nghiệp Việt Nam. Hơn nữa, khoa học công nghệ thúc đẩy liên kết cộng đồng chặt chẽ hơn, mở rộng năng lực quản lý, mở rộng quy mô hoạt động sản xuất kinh doanh, tạo điều kiện kết nối mạng lưới trong chuỗi hàng hóa, tạo điều kiện cho các liên kết canh tác chuyên canh liên vùng, tổ chức các cấu trúc cộng đồng và thúc đẩy phát triển kinh tế hợp tác. Đặc biệt, công nghệ số đóng vai trò then chốt bằng cách hỗ trợ quá trình chuyển đổi từ hệ thống canh tác và phân phối truyền thống sang nông nghiệp thông minh và phân phối hiện đại tích hợp với các nền tảng trực tuyến kết nối trực tiếp người tiêu dùng với nhà sản xuất.

Tuy nhiên, do năng lực khoa học công nghệ còn hạn chế, ngành nông nghiệp Việt Nam sẽ phải đối mặt với nhiều thách thức như: lao động nông nghiệp suy giảm, lực lượng lao động thiếu kỹ năng cần thiết, chênh lệch ngày càng tăng về điều kiện sống, phân phối thu nhập và cơ hội phát triển, bất bình đẳng trong tiếp cận và ứng dụng công nghệ tiên tiến, cũng như áp lực cạnh tranh từ các sản phẩm công nghệ cao nhập khẩu, v.v.

Các quy định chặt chẽ hơn về an toàn thực phẩm, rào cản kỹ thuật và các yêu cầu khác về môi trường và xã hội đang ngày càng nổi lên trên thị trường toàn cầu.

Xu hướng bảo hộ thương mại gia tăng, thể hiện thông qua nhiều cơ chế mới, đã trở nên rõ ràng trên toàn thế giới. Để bảo vệ sản xuất trong nước và sức khỏe người tiêu dùng, các quốc gia có xu hướng củng cố các rào cản phi thuế quan đối với các sản phẩm nông nghiệp nhập khẩu khi các rào cản thuế quan được dỡ bỏ theo các Hiệp định Thương mại Tự do (FTA). Hơn nữa, việc áp dụng các biện pháp bảo hộ thương mại đóng vai trò là phương tiện để các cường quốc khẳng định sự thống trị của mình trên các đấu trường kinh tế và thương mại toàn cầu. Theo đó, các quốc gia triển khai các biện pháp phi thuế quan đa dạng và ngày càng nghiêm ngặt đối với các mặt hàng nông sản nhập khẩu, bao gồm: (i) các biện pháp SPS (tiêu chuẩn vệ sinh và kiểm dịch động thực vật, thử nghiệm và kiểm dịch thực vật và động vật), (ii) các biện pháp TBT (quy định về ghi nhãn, tính đồng nhất, bao bì, ký hiệu, ngôn ngữ, v.v.) và (iii) quy tắc xuất xứ (chứng nhận và truy xuất nguồn gốc trong suốt chuỗi cung ứng). Những diễn biến này đã tạo ra sự bất ổn đáng kể trong thương mại nông sản toàn cầu, ảnh hưởng đến cả Việt Nam.

Bên cạnh các biện pháp phi thuế quan truyền thống, nhiều quốc gia ngày càng áp dụng nhiều hình thức công cụ phòng vệ thương mại mới như thuế chống bán phá giá, thuế chống trợ cấp, thuế chống lẩn tránh thuế quan và thực thi các quy tắc về gian lận xuất xứ. Hơn nữa, bảo vệ môi trường, các yêu cầu phát triển bền vững và tiêu chuẩn lao động đặt ra những thách thức mới cho chuỗi cung ứng xuất khẩu nông sản. Trong khi đó, khó khăn kinh tế đã làm giảm sức mua và áp lực thâm hụt thương mại đã làm gia tăng xu hướng bảo hộ thương mại, với việc gia tăng các rào cản kỹ thuật đối với hàng nông sản nhập khẩu nhằm bảo vệ quyền lợi của nông dân và cải thiện cán cân thương mại. Hệ thống các biện pháp phi thuế quan liên tục được cập nhật và triển khai thường xuyên hoặc không thường xuyên với cường độ ngày càng tăng, đặc biệt là bởi Liên minh Châu Âu, Hoa Kỳ và Trung Quốc, tập trung vào các sản phẩm nông nghiệp.

Sự xuất hiện của nhiều mô hình nông nghiệp tiên tiến và bền vững hướng tới phát triển xanh và tiêu dùng xanh ngày càng rõ nét.

Có một xu hướng chủ đạo là triển khai các chiến lược tập trung vào nền kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, kinh tế chia sẻ và kinh tế tri thức để đạt được các mục tiêu phát triển bền vững. Nền nông nghiệp hiện đại của thế kỷ 21 được đặc trưng bởi một nền nông nghiệp sinh thái thông minh và có trách nhiệm, dựa trên việc áp dụng các đổi mới trong nông nghiệp sinh thái. Điều này được tích hợp với các phương pháp quản trị thông minh chính xác tận dụng công nghệ số để nâng cao năng suất đồng thời bảo tồn tài nguyên. Đồng thời, nhận thức của người tiêu dùng đang chuyển sang các sản phẩm nông nghiệp không gây hại cho môi trường, không phát thải và tránh phá rừng, cùng các tiêu chí khác. Những chuyển đổi này đặt ra những yêu cầu đáng kể đối với các nước xuất khẩu nông sản để sửa đổi nhận thức, đổi mới tư duy và chuyển đổi hệ thống sản xuất nhằm đáp ứng yêu cầu của thị trường.

6.2. Các vấn đề dự kiến trong tương lai ảnh hưởng đến nông dân sản xuất nhỏ

Trong bối cảnh hiện nay, mặc dù nền kinh tế nói chung tiếp tục tăng trưởng, nhưng tăng trưởng vẫn chưa bền vững và biểu hiện rõ nét là năng suất lao động thấp. Nhiều ngành sản xuất vẫn phụ thuộc nặng nề vào nguyên liệu nhập khẩu. Hiệu quả xuất khẩu bấp bênh, giá trị gia tăng còn hạn chế. Nông sản vẫn chưa đạt tiêu chuẩn cao về giá trị và chất lượng. Đầu tư công và tư vào nông nghiệp còn tương đối thấp và phân tán. Những yếu tố này tác động tổng hợp đến hiệu quả đầu vào và đầu ra của nông hộ nhỏ. Một số yếu tố chính sẽ tác động tới nông dân sản xuất nhỏ trong tương lai gồm:

Biến đổi khí hậu làm gia tăng tần suất và mức độ nghiêm trọng của thiên tai, ảnh hưởng xấu đến sản xuất nông nghiệp, làm giảm năng suất, thiệt hại đáng kể về giá trị cây trồng.

Người dân nông thôn Việt Nam rất dễ bị tổn thương trước rủi ro, đặc biệt là những người có sinh kế phụ thuộc nhiều vào nông nghiệp. Nhiều nông dân vẫn còn thụ động, thiếu cả kiến thức và năng lực ứng phó với thiên tai, ảnh hưởng tiêu cực đến sản xuất của họ. Các hộ gia đình nông thôn phải đối mặt với nhiều loại rủi ro, bao gồm: thiên tai; dịch bệnh nông nghiệp; rủi ro kinh tế như biến động giá nông sản, mất việc làm, đầu tư thất bại, mất đất; và các rủi ro liên quan đến hộ gia đình, chẳng hạn như bệnh tật, thương tích hoặc tử vong, ly hôn, bị bỏ rơi hoặc tranh chấp nội bộ. Theo số liệu từ Khảo sát hộ gia đình tiếp cận tài nguyên Việt Nam (VARHS), tỷ lệ hộ gia đình bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh nông nghiệp và thiên tai cao hơn so với những hộ bị ảnh hưởng bởi rủi ro kinh tế và rủi ro liên quan đến hộ gia đình. Mặc dù tỷ lệ hộ gia đình nông thôn gặp phải cú sốc do thiên tai và dịch bệnh đã giảm nhẹ trong những năm gần đây, nhưng vẫn còn ở mức cao - khoảng 73% hộ gia đình. Các hộ gia đình chủ yếu phụ thuộc vào thu nhập nông nghiệp cũng dễ bị tổn thương nhất trước các cú sốc (khoảng 33%), so với các hộ gia đình có nguồn thu nhập chính từ tiền lương hoặc công việc được trả lương (khoảng 28%) và các hộ gia đình có thu nhập chính đến từ các nguồn phi nông nghiệp hoặc không phải tiền lương (khoảng 25%).

Khi đối mặt với cú sốc, đại đa số các hộ gia đình chủ yếu dựa vào chính mình để đối phó (89,7%). Các chiến lược đối phó phổ biến bao gồm giảm tiêu dùng (37,81%), sử dụng tiền tiết kiệm (13,19%) hoặc bán tài sản (6,91%). Đáng chú ý, một tỷ lệ lớn các hộ gia đình (49,25%) không có hành động nào để ứng phó với cú sốc. Điều đáng chú ý là mặc dù rủi ro thị trường và thiên tai ngày càng tăng, hầu hết các hộ gia đình vẫn phản ứng thụ động với những cú sốc như vậy và khả năng phục hồi của họ vẫn còn hạn chế. Theo kết quả VARHS 2018, chỉ có khoảng 57% hộ gia đình có thể phục hồi hoàn toàn sau những cú sốc này.

Nông dân đang già hóa

Một trong những đặc điểm nổi bật của lao động nông nghiệp Việt Nam là xu hướng già hóa rõ rệt. Năm 2010, độ tuổi trung bình của lao động nông nghiệp khoảng 38 tuổi; đến năm 2023 đã tăng lên trên 44 tuổi, và ở nhiều địa phương miền núi, trung bình gần 48 tuổi (GSO, 2023). Nhóm tuổi trên 45 chiếm khoảng 44 - 46% tổng lao động nông nghiệp, trong khi nhóm dưới 35 tuổi chỉ còn 24%, giảm hơn 10 điểm phần trăm so với năm 2010. Ở các nông hộ nhỏ, xu hướng này còn rõ rệt hơn do lao động trẻ di cư ra ngoài, người cao tuổi ở lại duy trì sản xuất tự cung tự cấp. Già hóa lực lượng lao động kéo theo ba hệ quả chính:

(i) Giảm năng suất và khả năng tiếp thu công nghệ mới; (ii) Tăng rủi ro thiếu lao động thời vụ, đặc biệt trong canh tác cây trồng cần sức lao động lớn; (iii) Mất dần cơ hội chuyển giao kỹ năng và tri thức nông nghiệp giữa các thế hệ. Tình trạng này cho thấy, nhân lực trong nông nghiệp đang suy yếu không chỉ do thiếu kỹ năng mà còn do yếu tố nhân khẩu học. Nếu không có chính sách thu hút, hỗ trợ và đào tạo lại lao động trẻ cho nông thôn, khu vực nông hộ nhỏ sẽ tiếp tục “già hóa” và tụt hậu về năng suất lao động trong lĩnh vực nông nghiệp.

Trình độ hạn chế của nông dân

Trình độ giáo dục và năng lực là yếu tố cốt lõi của nhân lực trong nông nghiệp. Trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam chuyển dịch mạnh sang công nghiệp và dịch vụ, khu vực nông nghiệp vẫn đang chịu áp lực kép: vừa phải giảm lao động, vừa phải nâng cao năng suất với nguồn nhân lực ngày càng già hóa và phân tán. Đặc biệt, đối với nông hộ nhỏ – chiếm hơn 80% tổng số hộ sản xuất nông nghiệp, trình độ học vấn, kỹ năng nghề và khả năng tiếp cận công nghệ mới còn rất hạn chế, dẫn đến hiệu quả sản xuất thấp và khó tham gia vào các chuỗi giá trị nông sản hiện đại. Theo các khảo sát gần đây của Tổng cục Thống kê (GSO, 2023) và Viện Chính sách và Chiến lược Phát triển Nông nghiệp Nông thôn (IPSARD, 2024), trình độ học vấn trung bình của lao động nông nghiệp vẫn ở mức thấp – chỉ tương đương 8,5 năm học, và gần 70% lao động nông nghiệp chưa qua đào tạo chuyên môn kỹ thuật. Trong nhóm nông hộ nhỏ, con số này có thể lên tới 80 - 85%, phản ánh khoảng cách lớn giữa khu vực nông nghiệp với các ngành khác của nền kinh tế.

Theo Khảo sát Mức sống hộ gia đình (VHLSS, 2022), 58,3% lao động nông nghiệp chỉ có trình độ dưới trung học cơ sở, trong khi chỉ 11,6% đạt trung học phổ thông hoặc cao hơn. Nếu so với lực lượng lao động cả nước (trong đó 37% có trình độ THPT trở lên), khoảng cách giáo dục giữa nông nghiệp và các ngành phi nông nghiệp là rất lớn – gần gấp 3 lần. Trình độ học vấn của lao động nông nghiệp vẫn ở mức thấp, đặc biệt trong các vùng miền núi, trung du và Tây Nguyên – nơi chiếm tỷ trọng cao của nông hộ nhỏ và hộ nghèo đa chiều. Điều này ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng tiếp thu kỹ thuật canh tác mới, kỹ năng quản lý, kinh doanh và năng lực tiếp cận thông tin thị trường – vốn là các năng lực nền tảng của quá trình chuyển đổi nông nghiệp hiện đại. Cũng theo khảo sát của IPSARD (2024), khoảng 72% chủ hộ nông nghiệp nhỏ cho rằng họ “không tự tin” trong việc đọc hiểu hướng dẫn kỹ thuật hoặc văn bản chính sách. Ở các vùng đồng bằng, người nông dân có cơ hội tham gia các khóa đào tạo nghề nông nghiệp, kỹ năng số, thậm chí các lớp quản trị hợp tác xã. Ngược lại, ở miền núi và vùng sâu, cơ sở dạy nghề còn ít, giáo viên thiếu, nội dung đào tạo xa thực tế sản xuất, khiến hiệu quả thấp. Ngoài ra, rào cản ngôn ngữ của đồng bào dân tộc thiểu số làm hạn chế khả năng tiếp thu kiến thức, dẫn đến nhiều lớp học nghề tổ chức nhưng ít học viên tốt nghiệp hoặc áp dụng được. Tình trạng này khiến năng suất lao động nông nghiệp của miền núi chỉ bằng 40–45% so với vùng đồng bằng, và khả năng chuyển đổi nghề hoặc ứng dụng công nghệ gần như không đáng kể.

8. Kết luận và khuyến nghị chính sách

Tăng cường đào tạo, nâng cao tri thức cho nông dân

Vốn nhân lực là yếu tố trung tâm quyết định năng suất, khả năng thích ứng và tính bền vững trong phát triển nông nghiệp, đặc biệt đối với nhóm nông hộ nhỏ, nơi phần lớn hoạt động sản xuất vẫn dựa vào lao động gia đình và kinh nghiệm truyền thống. Trong bối cảnh chuyển đổi của nền nông nghiệp Việt Nam, đầu tư vào vốn nhân lực không chỉ là điều kiện tiên quyết để tăng năng suất lao động và thu nhập của nông hộ, mà còn là động lực quan trọng để nâng cao năng lực cạnh tranh, thích ứng với thị trường và biến đổi khí hậu. Trước hết, vốn nhân lực quyết định trực tiếp đến năng suất và hiệu quả sử dụng các nguồn lực sản xuất. Người nông dân có trình độ học vấn, tay nghề và kỹ năng cao có khả năng tiếp thu nhanh tiến bộ kỹ thuật, áp dụng quy trình canh tác tiên tiến, sử dụng hiệu quả vật tư đầu vào và giảm chi phí sản xuất.

Theo số liệu của Tổng cục Thống kê (GSO), năng suất lao động nông nghiệp của nhóm hộ có lao động qua đào tạo cao hơn trung bình 1,4–1,6 lần so với nhóm chưa qua đào tạo . Điều này cho thấy đầu tư vào giáo dục, đào tạo nghề và kỹ năng thực hành có tác động rõ rệt đến hiệu quả kinh tế hộ nông dân. Thứ hai, vốn nhân lực là nền tảng của đổi mới và chuyển đổi công nghệ trong nông nghiệp. Nông hộ nhỏ với khả năng tiếp cận công nghệ số, thông tin thị trường, và quản trị tài chính có thể tham gia vào chuỗi giá trị nông sản hiện đại, nâng cao giá trị gia tăng và giảm rủi ro thị trường. Những hộ có kiến thức về kỹ thuật số có thể sử dụng các ứng dụng quản lý mùa vụ, truy xuất nguồn gốc, thương mại điện tử, qua đó mở rộng thị trường tiêu thụ, giảm phụ thuộc vào thương lái và tăng tính chủ động trong sản xuất. Thứ ba, vốn nhân lực giúp tăng khả năng thích ứng với biến đổi khí hậu và rủi ro môi trường. Lao động có kiến thức, kỹ năng về nông nghiệp thông minh với khí hậu (CSA), canh tác tiết kiệm nước, sử dụng giống chịu hạn, đa dạng hóa sinh kế có khả năng ứng phó linh hoạt hơn trước thiên tai, xâm nhập mặn và dịch bệnh cây trồng, vật nuôi. Ở các vùng chịu ảnh hưởng mạnh như Đồng bằng sông Cửu Long hay miền Trung, chất lượng nguồn nhân lực nông nghiệp trở thành yếu tố quyết định đến khả năng duy trì sản xuất và sinh kế bền vững. Bên cạnh đó, vốn nhân lực còn góp phần nâng cao năng lực quản lý và tính gắn kết cộng đồng. Nông dân có kỹ năng tổ chức, kế toán hộ gia đình và quản lý rủi ro có thể tham gia hiệu quả hơn vào hợp tác xã, tổ hợp tác và các mô hình liên kết sản xuất, qua đó gia tăng sức mạnh đàm phán, khả năng tiếp cận tín dụng và dịch vụ hỗ trợ. Mặt khác, trình độ văn hóa và hiểu biết xã hội cao hơn cũng giúp giảm bất bình đẳng giới trong sản xuất nông nghiệp, thúc đẩy vai trò của phụ nữ và thanh niên nông thôn trong quá trình phát triển.

Tóm lại, đối với nông hộ nhỏ, vốn nhân lực không chỉ là “nguồn lực mềm” mà là yếu tố quyết định sức sống và triển vọng phát triển dài hạn của nông nghiệp Việt Nam. Đầu tư vào con người – thông qua giáo dục, đào tạo nghề, chăm sóc sức khỏe, phát triển kỹ năng số và năng lực quản lý – chính là con đường then chốt để chuyển đổi nền nông nghiệp quy mô nhỏ hiện nay thành nền nông nghiệp hiện đại, bền vững và có khả năng cạnh tranh toàn cầu

Hỗ trợ, tạo điều kiện cho hộ nông dân chủ động tự tích lũy và phát triển

Sự phát triển của nông hộ thực chất là quá trình phát triển nội lực và tự đổi mới để tạo điều kiện làm giàu, đủ năng lực tích lũy và mở rộng tái sản xuất, tăng năng suất lao động để rút sức lao động, có vốn để tích lũy năng lực để họ trở thành lao động lành nghề, chuyển sang các ngành kinh tế phi nông nghiệp, đồng thời để lại ruộng đất cho các nông dân giỏi hơn để tích lũy và phát triển kinh tế trang trại. Dự báo trong 30 năm tới, khoảng 20 triệu người từ nông thôn sẽ trở thành cư dân thành thị. Phần lớn trong số hơn 9 triệu hộ nông dân nhỏ sẽ trở thành hộ phi nông nghiệp, hàng triệu nông dân kinh doanh mới sẽ được hình thành, và sẽ chuyển thành doanh nghiệp hoặc từ doanh nghiệp nhỏ thành doanh nghiệp lớn. Hàng chục triệu lao động sẽ rút khỏi nông nghiệp sang phi nông nghiệp và đô thị hóa sẽ diễn ra ngay từ trong các làng quê. Trong bối cảnh chỉ có 1% doanh nghiệp trong nước và hầu như không có doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào nông nghiệp, tỷ trọng đầu tư dành cho nông nghiệp chỉ chiếm khoảng 4 - 5% tổng vốn đầu tư toàn xã hội và Nhà nước chỉ đầu tư khoảng 8% ngân sách giai đoạn 2021 - 2025 cho ngành này thì giải pháp quan trọng nhất để người dân nông thôn nâng cao chất lượng phát huy sức lao động là phải dựa vào chính sức mình, cả nội lực và trí tuệ. Phát triển nông nghiệp, nông thôn và giảm nghèo bền vững bắt đầu từ việc phát huy nội lực của người nông dân. Trong giai đoạn tăng trưởng kinh tế nhanh chóng của đất nước sắp tới, việc giải quyết việc làm cho hàng triệu lao động nông nghiệp, nông thôn là một khối lượng công việc khổng lồ mà không ai có thể đảm nhiệm ngoài việc tạo điều kiện cho họ tự tích lũy và tự đầu tư.

Hỗ trợ phát triển hợp tác xã, doanh nghiệp nông nghiệp, tăng sức mạnh trong liên kết sản xuất

Con đường chính cho nông dân trong tương lai là mở rộng quy mô sản xuất, bởi năng suất dù cao đến đâu, chất lượng tốt đến đâu, hiệu quả kinh tế cũng chẳng đáng kể nếu ruộng đất của nông dân quá nhỏ. Trong 10 năm qua, 1 triệu hecta đất trồng lúa quý giá đã bị mất đi, ruộng đất của người dân ngày càng bị thu hẹp. Sự chuyển đổi từ sản xuất tiểu nông sang sản xuất hàng hóa quy mô lớn chính là kinh tế hợp tác xã. Tiểu nông phải liên kết với nhau thành hợp tác xã để tăng quy mô và sử dụng đất đai hiệu quả khi rút bớt lao động, sản xuất đủ lớn để sinh lời, có khả năng tích lũy và mở rộng tái sản xuất.

Hộ nông dân vẫn là thành phần sản xuất chính về mặt sở hữu và quản lý. Các hợp tác xã do ban lãnh đạo do họ bầu ra sẽ liên kết với các doanh nghiệp cung cấp nguyên liệu, vật tư đầu vào và các doanh nghiệp thu mua, tiêu thụ sản phẩm đầu ra, đồng thời cung cấp dịch vụ kỹ thuật cho sản xuất quy mô lớn. Chính sách khuyến khích phát triển hợp tác xã cần ưu tiên đầu tư vốn, cơ sở hạ tầng, thiết bị, khoa học công nghệ, hỗ trợ bảo quản, chế biến và tiếp cận thị trường.

Với đầu vào và đầu ra ổn định, hỗ trợ kỹ thuật, máy móc cùng cơ sở hạ tầng tốt, nông dân sẽ hăng hái tham gia hợp tác xã, biến hợp tác xã thành cầu nối giữa các hộ nông dân sản xuất nhỏ lẻ trong sản xuất quy mô lớn. Thông qua hợp tác xã, quá trình tích tụ ruộng đất sẽ diễn ra, những người sản xuất nghèo, những người không còn mặn mà với sản xuất nông nghiệp sẽ dần rút lui và giao lại đất cho những người sản xuất giỏi hơn. Những người rút lui sẽ được chia sẻ lợi nhuận, được đào tạo nghề hướng tới hoạt động trong lĩnh vực thương mại, dịch vụ... Hợp tác xã cũng là địa chỉ tiếp nhận các chính sách hỗ trợ của Nhà nước dành cho nông dân. Với tư cách là đại diện cho các hộ nông dân sản xuất nhỏ lẻ, họ đứng ra liên kết với các doanh nghiệp trong chuỗi giá trị, đóng vai trò là bà đỡ giúp kinh tế hộ gia đình đủ sức cạnh tranh trên thị trường và khởi nghiệp. Cùng với đó là các chính sách ưu đãi cho nông dân giỏi được tích tụ ruộng đất, tích lũy vốn để hình thành các trang trại lớn đi thẳng vào kinh doanh mà không cần thông qua hợp tác xã.

Nông nghiệp là lợi thế quốc gia. Nếu doanh nghiệp trong nước phát triển, đầu tư vào nông nghiệp công nghệ cao, chế biến sâu, tái cơ cấu khép kín, liên kết chặt chẽ với nông dân, kết nối với thị trường bằng doanh nghiệp dẫn dắt, sẽ hình thành nên những “hệ sinh thái tổ chức” kết hợp hài hòa, tạo nên những doanh nghiệp mũi nhọn chiến lược như lúa gạo, cà phê, cây ăn quả, thủy sản... mang lại lợi nhuận lớn cho doanh nghiệp, tạo khả năng tích lũy cho nông dân, mở ra những hướng phát triển đột phá cho Việt Nam, kết nối vào chuỗi giá trị toàn cầu. Đây là bài học thành công từ các quốc gia có lợi thế về các mặt hàng chủ lực như Brazil với cà phê, Malaysia với cọ dầu, Thái Lan với mía đường, Hà Lan với bò sữa, Na Uy với thủy sản, Thụy Điển với lâm nghiệp... Đây là tiền đề để các hộ nông dân nhỏ lẻ tại Việt Nam, thông qua hợp tác xã, chuyển đổi thành các trang trại lớn, từng bước kết nối với quá trình phát triển chung trên cả nước.

Đặc biệt, cần ban hành những chính sách đột phá về tổ chức lại cho nông hộ nhỏ, tổ chức lại lao động nông nghiệp để khởi động quá trình phát huy nội lực, tự đổi mới của nông dân và người lao động. Quá trình chuyển đổi xã hội lớn nhất diễn ra ở nông thôn trong giai đoạn cuối này sẽ quyết định đất nước ta có thể chuyển đổi thành công và đạt được mục tiêu của thời đại mới hay không./.

Nguyễn Lệ Hoa

Viện Chiến lược, Chính sách Nông nghiệp và Môi trường (ISPAE)

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (2023). Báo cáo tổng kết ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn năm 2023. Hà Nội.

Chính phủ (2024). Báo cáo tóm tắt kết quả thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2024, dự kiến kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2025. Hà Nội.

Đặng Kim Sơn (2025). Nông hộ nhỏ của Việt Nam. Hà Nội.

Hà Châu (2021). Đề xuất gần 9.000 tỷ đồng hỗ trợ nông nghiệp. Báo Nông nghiệp và Môi trường

Lê Minh Hoan (2022). Về nông dân chuyên nghiệp. Hà Nội.

OECD (2022). Innovation, agricultural productivity and sustainability in Viet Nam.Paris

Tổng cục Thống kê (2020). Tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp và thủy sản năm 2020. Hà Nội.

Tổng cục Thống kê (2022). Điều tra Lao động – Việc làm Việt Nam năm 2022. Hà Nội.

Tổng cục Thống kê (2022). Khảo sát Mức sống hộ gia đình Việt Nam (VHLSS 2022). Hà Nội.

Tổng cục Thống kê (2024). Niên giám thống kê Việt Nam 2024. Hà Nội.

Trần Đức Viên (2023). Phát triển nông nghiệp Việt Nam: Những vấn đề mới nổi và một số giải pháp. Hà Nội.

Viện Chính sách và Chiến lược Phát triển Nông nghiệp Nông thôn (IPSARD) (2023). Báo cáo khảo sát nông hộ và lợi nhuận lúa gạo Việt Nam 2023. Hà Nội.

Viện Chính sách và Chiến lược Phát triển Nông nghiệp Nông thôn (IPSARD) (2024). Báo cáo khảo sát nông hộ tại sáu tỉnh Việt Nam năm 2024. Hà Nội.