25/12/2024 lúc 20:53 (GMT+7)
Breaking News

Những ngộ nhận đối với cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước

VNHNO- Thời gian qua, trên mạng internet xuất hiện một số bài viết, quan điểm chưa đúng về kinh tế nhà nước (KTNN), doanh nghiệp nhà nước (DNNN) và cổ phần hóa DNNN (CPHDNNN) ) ở Việt Nam, đặc biệt nổi lên trong đó là hai ngộ nhận, cho rằng CPHDNNN làm giảm sút vai trò của khu vực kinh tế nhà nước và CPHDNNN làm mất công cụ định hướng XHCN của nền kinh tế thị trường... Bài viết dưới đây đề cập và góp phần hóa giải những ngộ nhận đó.

VNHNO- Thời gian qua, trên mạng internet xuất hiện một số bài viết, quan điểm chưa đúng về kinh tế nhà nước (KTNN), doanh nghiệp nhà nước (DNNN) và cổ phần hóa DNNN (CPHDNNN) ) ở Việt Nam, đặc biệt nổi lên trong đó là hai ngộ nhận, cho rằng CPHDNNN làm giảm sút vai trò của khu vực kinh tế nhà nước và CPHDNNN làm mất công cụ định hướng XHCN của nền kinh tế thị trường... Bài viết dưới đây đề cập và góp phần hóa giải những ngộ nhận đó.

Ảnh minh họa

1. Những kết quả bước đầu trong cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước

Theo Bộ Tài chính, giai đoạn 2011-2015, cả nước đã cổ phần hóa (CPH) gần 500 DNNN, đạt trên 92% kế hoạch; thoái vốn nhà nước tại DN thu về trên 21 nghìn tỷ đồng, đạt gần 1,4 lần giá trị đầu tư.

Năm 2016, Việt Nam cổ phần hóa được 52 DNNN. Năm 2017, có 45 DNNN được cấp có thẩm quyền phê duyệt phương án CPH. Tổng giá trị thực tế doanh nghiệp là 213.747 tỷ đồng, gấp 6 lần tổng giá trị thực tế các doanh nghiệp đã CPH trong năm 2016. Giá trị thực tế phần vốn Nhà nước tại doanh nghiệp là 88.390 tỷ đồng, gấp 3,5 lần giá trị thực tế phần vốn Nhà nước của các doanh nghiệp đã cổ phần hóa năm 2016. Tổng vốn điều lệ theo phương án cổ phần hóa được phê duyệt là 93.888 tỷ đồng, trong đó Nhà nước nắm giữ 42.007 tỷ đồng, chiếm 44,7% tổng vốn điều lệ; bán cho nhà đầu tư chiến lược 36.346 tỷ đồng, chiếm 38,7% tổng vốn điều lệ; bán cho người lao động 354 tỷ đồng, chiếm 0,37% tổng vốn điều lệ; bán cho tổ chức công đoàn 20 tỷ đồng, chiếm 0,02% tổng vốn điều lệ; số lượng cổ phần bán đấu giá công khai là 15.159 tỷ đồng, chiếm 16,14% tổng vốn điều lệ.

Về thoái vốn Nhà nước tại các doanh nghiệp giai đoạn 2011-2015, bán cổ phần vốn nhà nước không cần nắm giữ tại các doanh nghiệp đạt 16.387/32.000 tỷ đồng, tương đương 52%. Tính đến tháng 12-2016, các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước mới thoái được 42% số vốn phải thoái. Sau khi sắp xếp, cổ phần hóa hoặc chuyển đổi sang công ty TNHH một thành viên, vẫn có tới 80% vị trí lãnh đạo DNNN, ban giám đốc, kế toán trưởng hầu như không thay đổi.

Năm 2017 có 10 đơn vị thực hiện thoái vốn theo Quyết định số 1232/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, trong đó có 8 đơn vị thuộc kế hoạch thoái vốn năm 2017 và 2 đơn vị thuộc kế hoạch thoái vốn năm 2018.

Năm 2018, hoạt động CPH được tăng tốc và đạt kết quả tốt hơn, với dự kiến 64 DNNN sẽ được CPH, tương ứng hơn 50% số DNNN cần CPH của cả giai đoạn 2017- 2020. Trong đó, hàng loạt “ông lớn” được đưa ra chào bán, như Habeco, thoái tiếp một phần tại Vinamilk, một số đơn vị thành viên Tập đoàn Dầu khí, Công ty Lọc hóa dầu Bình Sơn, PVoil, Tập đoàn Cao su... Trong đó, riêng các công ty Lọc hóa dầu Bình Sơn, Pvoil, PV Power đã có quy mô vốn lên tới hơn 100 nghìn tỷ đồng, còn Tập đoàn Cao su quy mô vốn lên tới 150 nghìn tỷ đồng; Lọc hóa dầu Bình Sơn (vốn điều lệ 31.044 tỷ đồng), Đầu tư và Phát triển công nghiệp Becamex (vốn điều lệ 9.878 tỷ đồng), Sông Đà (vốn điều lệ 4.438 tỷ đồng), Lương thực miền Nam (vốn điều lệ 4.980 tỷ đồng), Thương mại Hà Nội (vốn điều lệ 2.155 tỷ đồng)...

Nhìn chung, quá trình CPHDNNN thời gian qua đã trực tiếp làm thay đổi bộ mặt khu vực này theo hướng: giảm mạnh số lượng DNNN; thu gọn phạm vi hoạt động, tập trung vào những ngành, lĩnh vực then chốt, thiết yếu, những địa bàn quan trọng và quốc phòng, an ninh, những lĩnh vực mà doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác không đầu tư. Hoạt động theo cơ chế thị trường, lấy hiệu quả kinh tế làm tiêu chí đánh giá chủ yếu, tự chủ, tự chịu trách nhiệm, cạnh tranh bình đẳng, công khai, minh bạch với doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác theo quy định của pháp luật. Từng bước có sự tách bạch nhiệm vụ của DNNN sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ thông thường và nhiệm vụ của DNNN sản xuất, cung cấp hàng hóa, dịch vụ công ích. Hiệu quả hoạt động, năng lực cạnh tranh của một số DNNN được nâng lên. Quản lý nhà nước đối với DNNN được điều chỉnh phù hợp hơn với cơ chế thị trường. DNNN tiếp tục là một lực lượng quan trọng của KTNN (tổng giá trị vốn và tài sản nhà nước tại các doanh nghiệp hiện vào khoảng 5,4 triệu tỷ đồng) góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế và thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội...

Theo tinh thần Quyết định số 58/2016/QĐ-TTg ngày 28-12-2016 của Thủ tướng Chính phủ (thay thế Quyết định số 37/2014/QĐ-TTg ngày 18-6-2014 của Thủ tướng Chính phủ), đến hết năm 2020, tất cả DNNN hiện có sẽ tiếp tục thực hiện sắp xếp, CPH theo tiêu chí phân loại danh mục và tỷ lệ vốn nhà nước cụ thể cho từng DN.

Đồng thời, tập trung xử lý dứt điểm các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước, các dự án, công trình đầu tư của DNNN kém hiệu quả, thua lỗ kéo dài, trọng tâm là 12 dự án thua lỗ, kém hiệu quả của ngành công thương; phấn đấu đáp ứng các chuẩn mực quốc tế về quản trị DN; nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, chất lượng sản phẩm, năng lực cạnh tranh của DNNN; hoàn thiện mô hình quản lý, giám sát DNNN và vốn, tài sản của Nhà nước đầu tư tại DN. Năm 2018, thành lập một cơ quan chuyên trách làm đại diện chủ sở hữu đối với DNNN và cổ phần, vốn góp của Nhà nước tại DN.

Đối với các DN không đủ điều kiện để thực hiện cổ phần hóa thì xem xét áp dụng các hình thức sắp xếp khác như bán, khoán, cho thuê, giải thể, áp dụng biện pháp phá sản theo quy định của pháp luật đối với DNNN lâm vào tình trạng phá sản mà không có phương án tái cơ cấu khả thi. Đối với các DNNN đang được giao quản lý, khai thác các công trình, dự án kết cấu hạ tầng do Nhà nước đầu tư có ý nghĩa quan trọng về kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh, khi cổ phần hóa, Nhà nước tiến hành kiểm soát theo nguyên tắc: Nhà nước thống nhất sở hữu các công trình hạ tầng quan trọng; DN cổ phần hóa, nhà đầu tư nhận quyền khai thác chỉ được quyền quản lý, vận hành, khai thác các công trình, dự án kết cấu hạ tầng; việc lựa chọn nhà đầu tư, DN phải thực hiện theo Luật Đấu thầu, công khai, minh bạch; bảo đảm quốc phòng, an ninh và bảo vệ chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ.

Gắn cổ phần hóa với niêm yết, đăng ký giao dịch tập trung trên thị trường chứng khoán. Các DN cổ phần hóa phải niêm yết trong thời hạn một năm kể từ ngày phát hành cổ phiếu lần đầu. Các DN cổ phần hóa chưa đáp ứng đầy đủ các điều kiện niêm yết cổ phiếu theo quy định của pháp luật thì phải đăng ký giao dịch trên hệ thống giao dịch cho chứng khoán chưa niêm yết (hệ thống giao dịch UPCoM). Xử lý nghiêm đối với các DN cố tình không thực hiện niêm yết, đăng ký giao dịch cổ phiếu trên thị trường chứng khoán theo quy định.

Tiền thu từ cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước được quản lý tập trung và chỉ sử dụng cho mục đích chi đầu tư phát triển, không sử dụng chi thường xuyên.

Kiên quyết xử lý dứt điểm các DNNN, các dự án đầu tư chậm tiến độ, hoạt động thua lỗ, kém hiệu quả theo cơ chế thị trường, thực hiện cơ cấu lại và chuyển nhượng dự án cho nhà đầu tư thuộc thành phần kinh tế khác. Làm rõ trách nhiệm và xử lý nghiêm theo quy định của pháp luật những vi phạm của các tổ chức, cá nhân liên quan để xảy ra tình trạng DNNN, dự án đầu tư thua lỗ, thất thoát, lãng phí lớn. Hoàn thiện tổ chức để thực hiện chức năng Nhà nước là chủ sở hữu đối với DNNN, cổ phần, vốn góp của Nhà nước tại DN.

Trên tinh thần đó, có thể dự báo trong giai đoạn tới, quá trình CPH và sắp xếp, đổi mới các DNNN sẽ đúng hướng, hiệu quả và tích cực hơn.

2. Ngộ nhận cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước làm giảm sức mạnh và vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước?

Theo Điều 1 Luật DNNN năm 2003: “DNNN là tổ chức kinh tế do Nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ hoặc có cổ phần, vốn góp chi phối, được tổ chức dưới hình thức công ty nhà nước, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn”.

Sau khi Luật Doanh nghiệp được ban hành năm 2005, thì DNNN được hiểu là doanh nghiệp trong đó Nhà nước sở hữu trên 50% vốn điều lệ (Khoản 22, Điều 4, Luật Doanh nghiệp năm 2005).

Theo Nghị định 99/2012/NĐ-CP về phân công, phân cấp thực hiện các quyền, trách nhiệm, nghĩa vụ của chủ sở hữu nhà nước đối với DNNNthì “DNNN là doanh nghiệp mà Nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều lệ, bao gồm doanh nghiệp mà Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ là công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên; và doanh nghiệp mà Nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều lệ là công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên”.

Đến Luật Doanhnghiệp năm 2014, “DNNN là doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ”.

Như vậy (từ năm 2016 đến nay), nội hàm DNNN đã được thu hẹp, chỉ còn bao gồm các DN mà Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ. Tuy nhiên, đến nay, khu vực KTNN vẫn bao gồm các DNNN và phần vốn, tài sản của Nhà nước tại các DN, các quỹ và tài sản quốc gia khác, v,v.., nên về cơ bản, tổng tài sản của khu vực KTNN khá ổn định, trừ phần giảm sút (nhỏ) do CPHDNNN và thoái vốn nhà nước khỏi DN thuộc khu vực kinh doanh, nhưng chúng được bù đắp lại bởi sự tăng trưởng của chính các DNNN và tăng nguồn thu NSNN (một hợp phần của KTNN) do giải phóng các nguồn lực và động lực tăng trưởng từ CPHDNNN và cải thiện môi trường đầu tư xã hội...

Có thể thấy, việc đánh đồng tên gọi, nội hàm giữa KTNN với DNNN không chỉ là sự nhầm lẫn về hình thức, tên gọi, cơ cấu nội hàm kỹ thuật, mà còn kéo theo sự ngộ nhận lớn hơn là đánh đồng vai trò chủ đạo của toàn thể (KTNN) với vai trò then chốt linh hoạt của bộ phận (DNNN), tức hiểu sai chủ trương, chính sách vĩ mô Nhà nước về CPHDNNN và quản lý kinh tế trong bối cảnh hội nhập. Nói cách khác, cả về lý luận và thực tế, sẽ là ngộ nhận khi đồng nhất vai trò chủ đạo của KTNN với mặc nhiên coi DNNN cũng có vai trò này.

Trên thực tế, dù CPHDNNN tăng tốc, sức mạnh khu vực KTNN không hề giảm, thậm chí còn tăng lên, do: Thứ nhất, KTNN bao gồm cả phần vốn nhà nước tại các DNNN (100% vốn), và cả tài sản tại các DN khác (theo BTC, dù số lượng DNNN giảm mạnh, song đến nay tổng cộng, chỉ khoảng 10-15% vốn và tài sản DNNN được CPH hoặc thoái vốn); Thứ hai, KTNN sẽ tăng quy mô do các DNNN tiếp tục phát triển sau CPH và sắp xếp, đổi mới quản lý; Thứ ba, KTNN tăng trưởng nhờ CPH làm tăng đầu tư và hiệu quả hoạt động của cả DNNN hậu CPH, lẫn toàn bộ nền kinh tế nói chung, dẫn đến tăng nguồn thu NSNN, mà NSNN cũng là một phần của KTNN.

Theo tính toán của Viện nghiên cứu quản lý kinh tế TW (Bộ KH&ĐT), các DNNN đang nắm giữ lượng lớn tài sản và nguồn lực quốc gia; nếu nguồn lực từ khu vực này được giải phóng và sử dụng có hiệu quả sẽ có đóng góp lớn cho nền kinh tế. Chẳng hạn, hiệu quả sử dụng tài sản Nhà nuớc chỉ cần tăng thêm 1% thì cả nước sẽ thu về thêm 3-4 tỷ USD và sẽ đóng góp thêm 1,5% cho tăng truởng GDP; tạo động lực tăng trưởng mạnh và bền vững hơn cho kinh tế vĩ mô. Vì thế, CPH và tái cơ cấu DNNN một cách hiệu quả và thực chất đang và sẽ tiếp tục là một trong những ưu tiên, mối quan tâm hàng đầu tạo động lực tăng trưởng và nâng cao sức mạnh của chính khu vực KTNN, cũng như nền kinh tế vĩ mô.

Cần thấy rằng, vai trò chủ đạo của KTNN cũng có sự điều chỉnh linh hoạt, thích hợp với cơ chế thị trường và yêu cầu hội nhập quốc tế sâu, rộng của Việt Nam. Trước đổi mới, ở Việt Nam chỉ có thành phần KTNN là chủ yếu nên DNNN cũng đồng thời giữ vai trò chủ đạo trong khu vực doanh nghiệp xã hội. Ngày nay, cùng với sự phát triển của nền kinh tế nhiều thành phần và quá trình hội nhập, khu vực các DNNN sẽ ngày càng giảm tỷ trọng, do đó giảm dần vai trò chủ đạo theo nghĩa truyền thống và biến đổi theo huớng then chốt (trong một số lĩnh vực, tập trung vào những lĩnh vực mà nhà nước cần độc quyền hay tư nhân không thể, không muốn đảm nhiệm).

Nghị định 99/2012/NĐ-CP khẳng định, Chính phủ thống nhất quản lý và thực hiện chức năng chủ sở hữu đối với DNNN và vốn nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp. Nhà nước chỉ đầu tư vốn, tài sản vào doanh nghiệp hoạt động trong những ngành, lĩnh vực, khâu then chốt, cung cấp sản phẩm, dịch vụ công ích thiết yếu cho xã hội và quốc phòng, an ninh, làm nòng cốt để KTNN thực hiện được vai trò chủ đạo, là lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước định hướng, điều tiết nền kinh tế và ổn định kinh tế vĩ mô. Nói cách khác, DNNN ngày càng thu hẹp sự chủ đạo từ phạm vi toàn bộ nền kinh tế chỉ còn vào một số lĩnh vực, ngành kinh tế chủ chốt. Đồng thời, vai trò chủ đạo của khu vực KTNN trong thời gian tới cũng cần được nhấn mạnh vào các nội dung và mục tiêu: nắm giữ các tài sản, tổ chức các hoạt động độc quyền thuộc lĩnh vực bảo đảm an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội; chủ động giữ vững các cân đối cơ cấu lớn, liên ngành, cấp quốc gia và ở địa phương, địa bàn cần thiết; chủ động và trực tiếp đảm nhận đầu tư vào những dự án, địa bàn không hấp dẫn hoặc cần thiết để định hướng, mở rộng đầu tư phát triển từ các nguồn  vốn ngoài ngân sách nhà nước.

Đặc biệt, sự chủ đạo của KTNN không có nghĩa là DNNN hưởng mọi ưu đãi vô điều kiện, gây bất bình đẳng với các thành phần kinh tế khác, mà cần sự bình đẳng giữa DNNN với các DN khác đã được xác định trong nhiều luật định khác hiện hành (nhất là Luật Doanh nghiệp, Luật Đấu thầu, Luật Đầu tư công).

3. Ngộ nhận cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước làm mất công cụ định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường ở Việt Nam?

Cần khẳng định CPHDNNN không làm mất đi công cụ định hướng XHCN của nền KTTT ở Việt Nam do xuất phát từ mục tiêu của công cuộc đổi mới và phát triển kinh tế nói chung, sự phát triển nhận thức về bản chất mô hình KTTT định hướng XHCN, cũng như các công cụ thực hiện vai trò điều tiết của nhà nước đối với nền KTTT ở nước ta nói riêng trong bối cảnh hội nhập quốc tế.

Báo cáo do Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng trình bày tại Đại hội XII, quan điểm của Đảng ta là: Thống nhất nhận thức nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường; Đồng thời, bảo đảm định hướng xẫ hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế; có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền XHCN, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”; có quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế; các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật; thị trường đóng vai trò chủ yếu trong huy động và phân bổ có hiệu quả các nguồn lực phát triển, là động lực chủ yếu để giải phóng sức sản xuất; các nguồn lực nhà nước được phân bổ theo chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phù hợp với cơ chế thị trường. Nhà nước đóng vai trò định hướng, xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế, tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch và lành mạnh; sử dụng các công cụ, chính sách và các nguồn lực của Nhà nước để định hướng và điều tiết nền kinh tế, thúc đẩy sản xuất kinh doanh và bảo vệ môi trường; thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội trong từng bước, từng chính sách phát triển. Phát huy vai trò làm chủ của nhân dân trong phát triển kinh tế - xã hội...

Tính hiện đại và hội nhập quốc tế thể hiện ở sự kế thừa có chọn lọc những thành tựu phát triển kinh tế thị trường của nhân loại, kinh nghiệm tổng kết từ thực tiễn hơn 30 năm đổi mới; có hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách và các yếu tố thị trường, các loại thị trường đầy đủ, đồng bộ, vận hành thông suốt, gắn kết chặt chẽ với các nền kinh tế trên thế giới; vai trò, chức năng của Nhà nước và thị trường được xác định và thực hiện phù hợp với thông lệ, nguyên tắc, chuẩn mực quốc tế phổ biến.

Định hướng XHCN thể hiện ở sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước, lấy con người làm trung tâm, vì con người và do con người; phát huy đầy đủ vai trò làm chủ của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển. Nền kinh tế có quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế. DNNN giữ vị trí then chốt và là một lực lượng vật chất quan trọng của kinh tế nhà nước. Kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể cùng với kinh tế tư nhân là nòng cốt để phát triển một nền kinh tế độc lập, tự chủ. Các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác, cạnh tranh cùng phát triển theo pháp luật. Khuyến khích làm giàu hợp pháp. Thực hiện phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và qua hệ thống an sinh, phúc lợi xã hội.

Nhà nước đóng vai trò định hướng, xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế; tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch và lành mạnh; sử dụng các công cụ, chính sách và các nguồn lực của Nhà nước để định hướng và điều tiết nền kinh tế, thúc đẩy sản xuất, kinh doanh và bảo vệ tài nguyên, môi trường; phát triển các lĩnh vực văn hóa, xã hội. Thị trường đóng vai trò chủ yếu trong huy động và phân bổ có hiệu quả các nguồn lực, là động lực chủ yếu để giải phóng sức sản xuất; các nguồn lực nhà nước được phân bổ theo chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phù hợp với cơ chế thị trường.

Nhận thức đầy đủ, tôn trọng và vận dụng đúng đắn các quy luật khách quan (và quy trình) của KTTT, thông lệ quốc tế, cam kết hội nhập. Bảo đảm định hướng XHCN phù hợp với điều kiện phát triển của đất nước trong từng giai đoạn. Thực hiện nhất quán một chế độ pháp lý kinh doanh cho các doanh nghiệp, không phân biệt hình thức sở hữu, thành phần kinh tế. Bảo đảm quyền tự do kinh doanh, cạnh tranh lành mạnh của các chủ thể kinh tế đã được Hiến pháp quy định; xoá bỏ các rào cản đối với hoạt động đầu tư, kinh doanh. Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính. Hoàn thiện các quy định liên quan để khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi nhất cho hoạt động khởi nghiệp. Hoàn thiện thể chế về cạnh tranh; tăng cường tính minh bạch về độc quyền nhà nước (chống độc quyền tư nhân). Xóa bỏ các cơ chế can thiệp hành chính trực tiếp, bao cấp của Nhà nước đối với doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế.

Quản lý DNNN đáp ứng các chuẩn mực quốc tế về quản trị doanh nghiệp; thực sự hoạt động theo cơ chế thị trường. Tách bạch, phân định rõ chức năng chủ sở hữu tài sản, vốn của Nhà nước với chức năng quản lý nhà nước đối với mọi loại hình doanh nghiệp, chức năng quản trị kinh doanh của DNNN; nâng cao hiệu quả DNNN trên nền tảng công nghệ hiện đại, năng lực đổi mới sáng tạo, quản trị theo chuẩn mực quốc tế, nhằm huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực xã hội, bảo toàn, phát triển vốn nhà nước tại doanh nghiệp để DNNN giữ vững vị trí then chốt và là một lực lượng vật chất quan trọng của kinh tế nhà nước, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế và thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội.

Mục tiêu đến năm 2030: hầu hết các DNNN có cơ cấu sở hữu hỗn hợp, chủ yếu là doanh nghiệp cổ phần.  Trình độ công nghệ, kỹ thuật sản xuất hiện đại tương đương với các nước trong khu vực; đáp ứng đầy đủ chuẩn mực quốc tế về quản trị doanh nghiệp; hình thành đội ngũ quản lý chuyên nghiệp, có trình độ cao, phẩm chất đạo đức tốt. Củng cố, phát triển một số tập đoàn kinh tế nhà nước có quy mô lớn, hoạt động hiệu quả, có khả năng cạnh tranh khu vực và quốc tế trong một số ngành, lĩnh vực then chốt của nền kinh tế. Tập trung vào những lĩnh vực then chốt, thiết yếu; những địa bàn quan trọng và quốc phòng, an ninh; những lĩnh vực mà doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác không đầu tư; giảm tỷ lệ sở hữu nhà nước xuống mức đủ để thay đổi quản trị một cách thực chất và thu hút nhà đầu tư có năng lực thực sự; tối đa hóa giá trị bán vốn nhà nước theo cơ chế thị trường.

Cơ cấu lại DNNN trên cơ sở nhiệm vụ được giao, ngành, nghề kinh doanh chính, khai thác tối đa tiềm năng, thế mạnh; triệt để tiết kiệm chi phí; nâng cao chất lượng hàng hóa, dịch vụ, uy tín và thương hiệu trên thị trường. DNNN tham gia thực hiện nhiệm vụ chính trị, xã hội do Nhà nước giao thực hiện theo cơ chế Nhà nước đặt hàng, lựa chọn cạnh tranh, công khai và xác định rõ giá thành, chi phí thực hiện, trách nhiệm và quyền lợi của Nhà nước, DNNN để bảo đảm không làm giảm hiệu quả kinh doanh của DNNN. Xóa bỏ các cơ chế can thiệp hành chính trực tiếp, bao cấp dành cho DNNN, đối xử bất bình đẳng với doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác, nhất là trong tiếp cận các nguồn lực nhà nước, tín dụng, đất đai, tài nguyên, cơ hội đầu tư, kinh doanh, tài chính, thuế,...

Phát huy vai trò mở đường, dẫn dắt của DNNN trong việc hình thành và mở rộng các chuỗi sản xuất, cung ứng và chuỗi giá trị trong nước, khu vực và thế giới. Hạn chế tình trạng sản xuất, kinh doanh khép kín, cục bộ, không minh bạch trong DNNN, đặc biệt là trong các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước; xây dựng và áp dụng khung quản trị doanh nghiệp phù hợp với chuẩn mực quốc tế tại các DNNN, nhất là đối với các tập đoàn, tổng công ty nhà nước; củng cố, phát triển một số tập đoàn kinh tế nhà nước đa sở hữu với quy mô lớn, hoạt động có hiệu quả, có khả năng cạnh tranh khu vực và quốc tế ở một số ngành, lĩnh vực then chốt của nền kinh tế trên cơ sở hoàn thiện mô hình tập đoàn kinh tế nhà nước theo thông lệ quốc tế; xác định rõ quy mô và phạm vi hoạt động phù hợp với năng lực quản trị, điều hành; kiên quyết đấu tranh và thiết lập các hệ thống quản trị, kiểm soát nội bộ có hiệu quả trong việc phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật, xung đột lợi ích; tình trạng cán bộ lãnh đạo, quản lý của DNNN móc ngoặc với cán bộ, công chức nhà nước và khu vực kinh tế tư nhân để hình thành “nhóm lợi ích”, “sân sau”, lạm dụng chức vụ, quyền hạn thao túng hoạt động của DNNN, trục lợi cá nhân, tham nhũng, lãng phí, gây tổn hại cho Nhà nước và doanh nghiệp.

Hoàn thiện tổ chức để thực hiện chức năng Nhà nước là chủ sở hữu đối với DNNN, cổ phần, vốn góp của Nhà nước tại doanh nghiệp; Nhà nước thực hiện đầy đủ trách nhiệm của chủ sở hữu đối với DNNN cổ phần, vốn góp của Nhà nước tại doanh nghiệp; thực sự đóng vai trò là nhà đầu tư, chủ sở hữu, bình đẳng về quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm với các nhà đầu tư khác trong doanh nghiệp. Bảo đảm quyền tự chủ trong hoạt động của DNNN theo nguyên tắc thị trường.

Khác với các hoạt động kinh tế khác, hoạt động kinh tế của Nhà nước và do đó của DNNN, luôn có 2 mục tiêu với 2 tính chất khác nhau, đó là mục tiêu kinh doanh thông thường như các DN khác, và mục tiêu công ích đặc trưng riêng có của mình. Vì vậy, cần xác định rõ theo các hệ tiêu chí đồng bộ và khoa học về tính chất kinh doanh và tính chất công ích của DNNN; từ đó làm rõ cơ chế quản lý phù hợp, đáp ứng mục tiêu kinh tế - xã hội, môi trường, cũng như các lợi ích quốc gia và địa phương, ngành, cụ thể và dài hạn; khắc phục sự nhập nhằng giữa nguồn vốn hoạt động vì lợi nhuận với nguồn vốn hoạt động phi lợi nhuận, cũng như giữa trách nhiệm xã hội của  các tập đoàn KTNN đối với ổn định kinh tế vĩ mô với nhiệm vụ sản xuất kinh doanh, dễ  dẫn đến đầu tư của tập đoàn vừa  bị phân tán, vừa dễ bị lạm dụng, kém hiệu quả. Đây cũng là điểm nút để giảm thiểu sự nhập nhằng, mù mờ hoặc lạm dụng trong hạch toán và đánh giá các hoạt động công ích và hoạt động kinh doanh của các DN trong thực tiễn cả quản lý nhà nước, cũng như sự hoạt động tự chủ của DNNN, khiến các DNNN không hoạt động hiệu quả như mong muốn và tiềm năng, nhất là đối với các DNNN thuộc lĩnh vực độc quyền cao.

Như vậy, có thể nói, CPHDNNN dù có xu hướng làm giảm thiểu, thu hẹp, nhưng không phải là làm suy yếu và dần xóa bỏ các DNNN nói riêng,  khu vực KTNN nói chung, mà là làm cho chúng ngày càng hoạt động tốt hơn, hiệu quả hơn, định hướng, dẫn dắt và đóng góp nhiều hơn cho sự phát triển kinh tế quốc gia theo nguyên tắc quản lý kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế. Khi đó, là định hướng XHCN của nền kinh tế ngày càng hiện thực hóa và vai trò định hướng của khu vực KTNN, trong đó có DNNN, lại càng phát huy theo cách thức mới, phù hợp, đậm nét và hiệu quả hơn.

Nói cách khác, CPHDNNN không làm mất đi công cụ đắc lực định hướng XHCN cho nền KTTT, mà còn là góp phần thúc đẩy và hiện thực hóa cơ chế mới trong quan hệ Nhà nước với thị trường trong nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam. Theo đó, quan hệ của DNNN với các DN khác, giữa khu vực KTNN với các khu vực kinh tế khác không phải là quan hệ xung khắc, loại trừ và kiềm chế nhau, mà là mối quan hệ tương hỗ, cùng vận động và bổ sung cho nhau trong một chỉnh thể và đều hướng tới mục tiêu chung là xây dựng một nền kinh tế Việt Nam phát triển và bền vững, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng và văn minh.

Cần nhấn mạnh rằng, nếu như tính KTTT của nền kinh tế Việt Nam được thống nhất khẳng định là nền KTTT hiện đại và hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật và tuân thủ đúng quy trình của KTTT, thì tính định hướng XHCN phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước lại được thể hiện ở mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”và được bảo đảm bởi sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.

Sự kết hợp hiệu quả giữa tính KTTT và tính định hướng XHCN cũng chính là đáp ứng xu hướng mới mang tầm vóc thời đại, đòi hỏi có sự kết hợp tất yếu của bàn tay thị trường với bàn tay nhà nước trong một mô hình quản lý xã hội mới đang dần định hình trên thế giới, nhất là từ sau những cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội liên tiếp xảy ra trong những thập niên cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI trên quy mô toàn thế giới và trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế ngày càng sâu, rộng hơn. Sự kết hợp bàn tay thị trường với bàn tay nhà nước là việc lựa chọn và kết hợp để tạo hiệu ứng tổng hợp tích cực những điểm tốt của mỗi cách thức quản lý kinh tế, đồng thời góp phần giảm thiểu những tác động mặt trái của chúng, tạo động lực mạnh mẽ, kiểm soát chặt chẽ các rủi ro và nâng cao hiệu quả, chất lượng tăng trưởng, hài hòa các mục tiêu và củng cố định hướng, phát triển bền vững cả về kinh tế, xã hội và môi trường.

________________

TS Nguyễn Minh Phong

Ban Tuyên truyền lý luận, Báo Nhân Dân

ThS Nguyễn Trần Minh Trí

Viện Kinh tế & Chính trị thế giới, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam