1. Về bối cảnh quốc tế:
Trong giai đoạn mới, nước ta sẽ tiếp tục hội nhập quốc tế sâu rộng hơn. Sự phát triển của thế giới bị chi phối bởi các khuynh hướng và các lực lượng khác nhau, nhưng về cơ bản vẫn chủ yếu trong môi trường quốc tế do các nước phát triển, các nước lớn, nhất là các nước tư bản phát triển chi phối, thể hiện trên các phương diện chủ yếu sau:
i) - Sự phát triển của thế giới, mà dẫn đầu là các nước tư bản chủ nghĩa phát triển vẫn tiếp tục phát triển theo các quy luật khách quan mà Mác đã nêu lên về “sự phát triển lịch sử tự nhiên của loài người” qua các hình thái kinh tế - xã hội. Chủ nghĩa tư bản vẫn đóng vai trò chi phối chủ đạo các xu thế phát triển lớn của thế giới; nhưng sự chi phối này chịu sự tác động, đấu tranh của các xu hướng phát triển lớn khác là: xu hướng phát triển “dân chủ xã hội”, xu hướng phát triển theo chủ nghĩa xã hội (hay “định hướng xã hội chủ nghĩa”), xu hướng “dân tộc chủ nghĩa” với những sắc thái khác nhau, xu hướng “tôn giáo hóa”…, tạo nên những giá trị chung của nhân loại trong quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế.
ii) - Thực tế cho thấy, trong các nước tư bản chủ nghĩa, nhất là trong các nước tư bản phát triển, do quy luật phát triển “phủ định” biện chứng (khách quan) của quá trình phát triển và xã hội hóa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, đang từng bước “nẩy sinh” các nhân tố “xã hội chủ nghĩa” trong lòng nó đúng như dự báo của Mác; cùng với sự đấu tranh, tác động của các xu thể phát triển khác trên thế giới trong quá trình hội nhập quốc tế; làm cho sự phát triển của các nước tư bản chủ nghĩa không thể không chứa đựng một số những giá trị chung của nhân loại (như hòa bình, dân chủ, quyền con người, bình đẳng giữa các quốc gia, chống nghèo đói, phát triển bền vững…). Điều này cho thấy, chủ nghĩa tư bản hiện đại trong quá trình phát triển vẫn giữ bản chất “bóc lột giá trị thặng dư”, nhưng dưới những hình thái mới[1]; nhất là khi khi tư bản sở hữu trí tuệ, sở hữu công nghệ cao ngày càng tăng lên. Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản “dường như” “buộc phải” ngày càng “nhân bản hơn” thông qua phát triển theo những giá trị chung của nhân loại, nâng cao hơn đời sống mọi mặt của người dân. Đó cũng là kết quả đấu tranh của các lực lượng tiến bộ trong xã hội, ở ngay trong lòng các nước đó.
iii) - Dưới tác động của các xu hướng phát triển khác nhau và quá trình toàn cầu hóa - hội nhập quốc tế sâu rộng, vấn đề “ý thức hệ” không còn đóng vai trò “độc tôn” chủ đạo chi phối quan hệ quốc tế, quan hệ giữa các nước; mà nổi lên hàng đầu là “lợi ích quốc gia - dân tộc”, “lợi ích tương hỗ” giữa các bên trong quá trình hội nhập quốc tế. Trong đó, sức mạnh và tiềm lực kinh tế, tiềm lực quân sự của một quốc gia, nhất là các nước phát triển, các nước lớn, vẫn đóng vai trò quan trọng trong định hình cấu trúc quan hệ quốc tế. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là vấn đề đấu tranh “ý thức hệ” bị mất đi, bị coi nhẹ.
iv) - Dưới tác động của cạnh tranh chiến lược giữa các nước, nhất là giữa các nước lớn; cùng với quá trình toàn cầu hóa, thế giới đang diễn ra quá trình “đa cực hóa”, đang hình thành các cực khác nhau về “quyền lực quân sự - chính trị”, về “trung tâm phát triển kinh tế, công nghệ” (các loại cực này có quan hệ mật thiết với nhau, nhưng không phải khi nào cũng là một); tạo thành các “tầng cực” (hay mạng lưới) các cực khác nhau: tầng trên cùng là Mỹ và Trung Quốc, tầng thứ hai gồm EU, Nhật bản, Nga, Ấn Độ, tầng thứ 3 gồm các nước tư bản phát triển khác trong nhóm G7, G 20; nhóm các nước mới nổi BRICS, gồm Brazil, Nga, Ấn Độ, Trung Quốc và Nam Phi ngày càng lớn mạnh, cuốn hút sự quan tâm của nhiều nước muốn tham gia[2]. Có các cực ở tầm toàn cầu, có các cự ở tầm khu vực. Các tầng cực này lại đan xen với nhau theo các quan hệ lợi ích giữa các nước, và trong quan hệ với các nước khác trên thế giới.
Xu thế này đưa đến tình trạng “phân mảnh” trong cấu trúc quan hệ quốc tế, vừa đấu tranh, vừa hợp tác không chỉ giữa các cực, giữa các nước, mà còn giữa các khối liên kết khác nhau, tác động “tiêu cực” đến quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế. Trong không ít trường hợp, các “cực lớn”, các khối liên kết lớn dùng “thế lực” của mình ép các nước nhỏ hơn phải “chọn bên”, phải phát triển “trong quỹ đạo ảnh hưởng” của mình, hoặc phải chịu thiệt thòi. Quá trình đa cực hóa, “khối hóa” gắn với mạng lưới hóa trong quan hệ quốc tế, cùng với sự tác động của cạnh tranh chiến lược, của biến đổi khí hậu, của cấu trúc địa chính trị, đang diễn ra “tái cấu trúc” quan hệ quốc tế, nhất là đối với các nước tư bản chủ nghĩa phát triển, theo các khối, các nhóm, với tiêu chí “lợi ích” chiến lược làm “điểm đồng chi phối”, trên cơ sở xây dựng “lòng tin chiến lược”, “đồng chí hướng”. Cũng trên cơ sở này, các nước tư bản phát triển triển khai tái cấu trúc các chuỗi cung ứng toàn cầu, nhất là các chuỗi cung ứng có tính chiến lược (như về công nghệ cao, về năng lượng, về lương thực…), nhằm đảm bảo an ninh, ổn định, hiệu quả và bền vững trong phát triển.
v) - Chủ nghĩa tư bản, mà đại diện là các nước tư bản chủ nghĩa phát triển, vẫn là lực lượng chủ đạo phát triển nền kinh tế thị trường hiện đại (cả nền kinh tế thực và nền kinh tế ảo, nền kinh tế số…), nền khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo, nền giáo dục - đào tạo chuyên gia trình độ và chất lượng cao; là lực lượng chủ đạo phát triển Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Sự tác động của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang thúc đẩy mạnh quá trình “thông minh hóa” nền sản xuất xã hội trên nền tảng của trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn và số hóa.
Dưới tác động của các cuộc cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, nhất là Mỹ và Trung Quốc, dưới tác động của đại dịch Covid -19, tác động của các cuộc chiến tranh nóng (điển hình là giữa Nga và Ucraina…), tác động của Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ Tư và của biến đổi khí hậu toàn cầu, đang diễn ra sự thay đổi và hình thành trật tự kinh tế thế giới mới, với vai trò ngày càng lớn hơn của các nền kinh tế mới nổi. Sự hình thành của trật tự kinh tế thế giới mới, với xu hướng “phân mảnh” theo các khối liên kết khác nhau, sẽ kéo theo những thay đổi lớn về cấu trúc và thể chế kinh tế thế giới (như hình thành kinh tế tri thức, kinh tế số, kinh tế xanh, cấu trúc các chuỗi cung ứng mới…; sự thay đổi các luật lệ kinh tế quốc tế, hình thành các trung tâm tài chính mới, các thị trường hàng hóa dịch vụ mới với phương thức và cơ chế hoạt động mới trên quy mô toàn cầu, khu vực; hình thành các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới liên kết các nhóm nước khác nhau; vị trí của đồng USD Mỹ vẫn còn rất mạnh, nhưng sẽ bị giảm đi một cách tương đối trên thị trường thế giới…). Điều này tất yếu đưa đến những đặc trưng, hình thức và cơ chế toàn cầu hóa kinh tế mới. Đồng thời, cũng sẽ diễn ra quá trình các nước tìm các giải pháp để nâng cao năng lực “độc lập - tự chủ” và khả năng thích ứng, “ứng phó”, “chống chịu” của nền kinh tế mỗi nước, trước những tác động tiêu cực của quá trình toàn cầu hóa mới.
vi) - Quá trình toàn cầu hóa chủ nghĩa tư bản tiếp tục được đẩy mạnh (hình thành chủ nghĩa tư bản toàn cầu), sẽ tác động tới sự phát triển của tất cả các nước trên thế giới. Điều này thể hiện ở sự phát triển ngày càng nhiều với quy mô kinh tế ngày càng lớn các tập đoàn kinh tế “đa quốc gia”, “xuyên quốc gia” (nhất là các tập đoàn công nghệ gắn với đầu tư, thương mại, dịch vụ toàn cầu); đưa đến một hình thái “độc quyền mới” - đó là độc quyền về nền tảng công nghệ, đồng thời thông qua nền tảng công nghệ đó sẽ “độc quyền” sở hữu dữ liệu (thông tin về mạng lưới sản xuất và tiêu dùng, mạng lưới tài sản xã hội…), sử dụng và chi phối các dữ liệu về nguồn lực phát triển, về mạng lưới khách hàng trên toàn cầu (đây không chỉ là dữ liệu - vấn đề kinh tế, mà còn gắn liền với các vấn đề xã hội, quyền riêng tư, quyền con người, hình thành các giá trị xã hội…).
Bản thân cấu trúc sở hữu của các tập đoàn này cũng thay đổi mạnh mẽ từ sở hữu riêng của các nhà tư bản sang sở hữu xã hội (với sự ham gia góp cổ phần của hàng triệu cổ đông trên toàn thế giới, trong đó phần đông là những người lao động, công chức, nhất là khi xuất hiện thị trường chứng khoán toàn cầu; dù là tỷ trọng cổ phần của những người lao động còn chiếm tỷ trọng khiêm tốn); như vậy quá trình tích lỹ tư bản không còn chỉ là “thâu tóm” để tăng quy mô, mà đi theo phương thức xã hội hóa “liên kết”, “kết nối” theo chuỗi, theo mạng.
Điều đó làm thay đổi quan hệ sở hữu, quan hệ quản lý và quan hệ phân phối trên toàn cầu. Đối với các tập đoàn này, tính chất “dân tộc” ngày càng giảm đi, lợi ích và lợi nhuận thu được từ rất nhiều nước khác nhau trên thế giới; ngay tại các nước “chính gốc” của các tập đoàn cũng đang phải ban hành luật pháp, cơ chế, chính sách để “buộc” các tập đoàn đó thực hiện nghĩa vụ đối với quốc gia “chính gốc” (như việc cấm hay hạn chế đầu tư và chuyển giao công nghệ cao vào nước khác; buộc các tập đoàn công nghệ không được vi phạm, làm tổn hại đến lợi ích kinh tế, an ninh quốc gia, trật tự và đạo đức xã hội[3]; việc áp dụng thuế tối thiểu toàn cầu[4] của chính phủ các nước có xuất xứ FDI có thể sẽ làm giảm sự cạnh tranh trong thu hút đầu tư FDI tại các quốc gia đang phát triển dựa chủ yếu vào ưu đãi thuế để thu hút FDI…). Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản toàn cầu hóa sẽ đưa đến sự ra đời của những thể chế “quản lý” toàn cầu mới đối với các tập đoàn kinh tế đa quốc gia (hay phi dân tộc) này. Quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng, với những đặc trưng mới, cũng làm cho thể chế, cơ chế, chính sách quản lý - quản trị riêng của từng nước bị “hạn chế” vai trò tác động, không đáp ứng được hiệu quả cao, nếu không thích ứng với sự thay đổi của các thể chế toàn cầu.
vii) - Nhìn tổng thể, quá trình dân chủ hóa các lĩnh vực, các mặt, các phương diện của xã hội ngày càng tăng lên (điều này diễn ra dưới “sức ép”, tác động của sự phát triển khách quan, nội tại của mỗi nước theo quy luật phủ định biện chứng mà Mác đã nêu; mặt khác là dưới tác động của quá trình toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế với sự đấu tranh, phát triển các giá trị chung của nhân loại). Quá trình dân chủ hóa được diễn ra trong từng nước và giữa các nước trong quan hệ quốc tế với những cấp độ khác nhau. Nhưng, song hành với quá trình này, vẫn có sự trỗi dậy của chủ nghĩa dân tộc cực đoan, chủ nghĩa nước lớn cường quyền, chủ nghĩa bảo hộ thiên lệch, áp đặt, tác động tiêu cực đến quá trình dân chủ hóa.
viii) - Trong quá trình phát triển, hội nhập quốc tế và toàn cầu hóa, các quốc gia luôn đặt lợi ích quốc gia - dân tộc mình lên trên hết, nhưng phải đặt trong tương quan và tôn trọng các lợi ích chính đáng của các quốc gia - dân tộc khác. Sự “tùy thuộc lẫn nhau” ngày càng tăng lên; các nước đều mong muốn xây dựng các quan hệ “bền vững”, “ổn định” với các nước khác, nhất là với các nước đối tác chiến lược, các đồng minh chiến lược. Tuy nhiên điều này phụ thuộc vào “lòng tin chiến lược”, sự tin cậy lẫn nhau, được xây dựng như thế nào giữa các đối tác, thể hiện tập trung ở sự tôn trọng độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, chế độ - thể chế phát triển, lợi ích phát triển của nhau.
ix) - Trong quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, do có sự chênh lệch (khoảng cách) lớn về trình độ sở hữu trí tuệ, sở hữu công nghệ, trình độ số hóa, sở hữu vốn, sở hữu nguồn nhân lực chất lượng cao - trình độ cao giữa các nước phát triển và các nước còn lại, dẫn đến xu hướng phân hóa ngày càng cao về lợi ích (giá trị gia tăng) thu được giữa các quốc gia (các doanh nghiệp) nắm giữ các “công đoạn” khác nhau trong các chuỗi sản xuất, cung ứng; các nước (doanh nghiệp) chủ yếu tham gia vào công đoạn gia công, lắp ráp sẽ thu được lợi ích thấp nhất. Điều này đặt ra vấn đề hệ trọng là, một quốc gia không vươn lên làm chủ được công nghệ, sẽ luôn là nước đi sau (dù có là công xưởng lắp ráp của thế giới), trở thành “bãi rác công nghệ” của các nước tiên tiến, sẽ rơi vào “bẫy thu nhập trung bình”.
x) - Trong quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng về mọi mặt, với tư duy chỉ đạo xuyên suốt là “lợi ích quốc gia - dân tộc là trên hết”, quan hệ quốc tế của một quốc gia với các nước khác, sẽ có thể có sự “phân ly” nhất định (cấp độ khác nhau, tính chất, quy mô khác nhau…) giữa các quan hệ về các lĩnh vực kinh tế, chính trị, quốc phòng, an ninh, đối ngoại…Đây là điều khác biệt với quan hệ quốc tế theo kiểu “chọn phe” rạch ròi như trước đây.
xi) - Những vấn đề toàn cầu ngày càng tăng lên, liên quan đến lợi ích, “vận mệnh” của tất cả các nước, của cả nhân loại. Trong đó phải kể đến vấn đề hòa bình và phát triển; tác động của biến đổi khí hậu toàn cầu, vấn đề ô nhiễm môi trường toàn cầu, vấn đề suy thoái môi trường sinh thái toàn cầu, vấn đề cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên toàn cầu; vấn đề an ninh con người, an ninh phi truyền thống, an ninh kinh tế, an ninh lương thực, an ninh xã hội, an ninh năng lượng, an ninh tài chính, tiền tệ…, mà từng nước không thể (hoặc khó) giải quyết một cách hiệu quả, đòi hỏi phải có sự hợp tác giữa các nước trên bình diện toàn cầu.
xii) - Phát triển bền vững là một xu thế, một yêu cầu, một giá trị chung của nhân loại, của tất cả các nước. Sau hàng thế kỷ, nhất là trong những thập kỷ cuối thể kỷ XX và đầu thế kỷ XXI, loài người, nhất là các nước phát triển, đã đẩy mạnh phát triển theo chiều rộng, khai thác cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên và “tàn phá” môi trường sinh thái, “vay mượn” nguồn sống của các thế hệ sau, “hy sinh môi trường vì tăng trưởng kinh tế”, tạo nên tình trạng phát triển không bền vững cả về kinh tế, văn hóa, xã hội và môi trường. Giờ đây, cả các nước tư bản phát triển, các nước đang phát triển và các nước còn kém phát triển, đều nhận thức rõ phải xây dựng phương thức phát triển bền vững đồng bộ về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội và môi trường sinh thái; coi đây là một giá trị chung của nhân loại. Chính vì vậy mà Liên hiệp quốc đã nhất trí cao đưa ra Mục tiêu phát triển bền vững toàn cầu (Sustainable Development Goals - SDG), hướng tới một “nền sản xuất xã hội xanh, tiêu dùng xanh”. Đây là mục tiêu phổ quát được thiết kế nhằm chấm dứt đói nghèo, bảo vệ hành tinh và đảm bảo rằng tất cả mọi người ở mỗi quốc gia thành viên được hưởng hòa bình và thịnh vượng vào năm 2030.
Phát triển xanh đang trở thành một xu hướng lớn trên thế giới. Các nước phát triển có xu hướng ngày càng nâng cao các tiêu chí, tiêu chuẩn về phát triển sản xuất kinh doanh và tiêu dùng xanh, sạch, thân thiện với môi trường của nước mình và trong quan hệ hợp tác - hội nhập quốc tế; đặt ra các yêu cầu rất cao về chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm và chất lượng môi trường trong đầu tư, sản xuất kinh doanh, tiêu dùng và xuất nhập khẩu (ví dụ, một số nước Bắc Âu, như Phần Lan, đang thí điểm thị trường Carbon cá nhân, trong đó đưa ra tiêu chuẩn, tiêu chí kiểm soát mức thải Carbon từ hoạt động và tiêu dùng của từng cá nhân trong từng tháng; hay như EU đưa ra quy định từ năm 2025 sẽ đánh thuế Carbon trên các sản phẩm nhập khẩu, cấm buôn bán tiêu thụ các sản phẩm nông sản được trồng trên đất phá rừng; cũng EU đưa ra quy định “phạt thẻ vàng, thẻ đỏ” IUU về đánh bắt cá bất hợp pháp, làm cạn kiệt nguồn hải sản tự nhiên…).
xiii) - Trong một số năm sắp tới, kinh tế thế giới nói chung, nhất là kinh tế các nước tư bản phát triển, sẽ có thể phát triển chậm lại, thậm chí có nước có thể rơi vào suy thoái (có những đánh giá cho là khủng hoảng chu kỳ của chủ nghĩa tư bản); điều này cho thấy sự phát triển của thế giới, thể hiện trước hết ở các nước tư bản phát triển, đang bước vào một giai đoạn có tính chất bước ngoặt trong sự phát triển, dưới tác động của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 (của trí tuệ nhân tạo, tự động hóa, internet vạn vật…), của biến đổi khí hậu; đòi hỏi hỏi phải có sự tái cấu trúc lại toàn bộ nền kinh tế, thể chế phát triển kinh tế trong phạm vi từng nước và trên phạm vi toàn cầu. Quá trình tái cấu trúc này, trong giai đoạn đầu, sẽ có thể tác động tiêu cực đến sự phát triển của kinh tế thế giới nói chung trong một thời gian nhất định, nhất là đối với các nước đang phát triển và kém phát triển (vì các nước phát triển thường là thị trường lớn của các nước đang phát triển và kém phát triển cả về xuất nhập khẩu, về nguồn đầu tư FDI). Những nước không thích ứng được, không vượt qua được quá trình tái cấu trúc này, sẽ bị tụt lại và lệ thuộc nhiều hơn vào các nước phát triển.
2. Về bối cảnh phát triển trong nước:
Sau gần 40 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử: đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, bước vào nhóm nước có thu nhập trung bình; thế và lực của đất nước được nâng lên đáng kể; vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế không ngừng được nâng lên… Đó là những điều kiện, cơ sở quan trọng để đất nước tiếp tục phát triển nhanh - bền vững hơn trong giai đoạn mới. Tuy nhiên, tiềm lực và trình độ phát triển của Việt Nam vẫn còn không ít yếu kém và hạn chế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới. Nguy cơ tụt hậu về phát triển kinh tế vẫn còn hiện hữu, thể hiện trên một số mặt chủ yếu sau[1] :
- Về tăng trưởng kinh tế : Từ năm 2008 Việt Nam chính thức trở thành quốc gia có thu nhập trung bình thấp với GDP bình quân đầu người đạt 1.145 USD; năm 2019 đạt 2.769 USD/người; năm 2022 đạt khoảng 4.162,94 USD (theo cách tính mới có điều chỉnh), xếp thứ 117 trên thế giới, chỉ xếp trên Philippin, Lào, Campuchia, Đông Timor, Myanmar. Xét trên góc độ GDP bình quân đầu người Việt Nam hiện đang đi sau đi sau Thái Lan 14 năm[2], Ma-lai-xi-a 27 năm, Hàn Quốc khoảng 40 năm, In-đô-nê-xi-a 8 năm. Cách đây 30 năm, GDP bình quân đầu người của thế giới hơn Việt Nam 3.900 USD, đến nay khoảng cách đã là hơn 8.000 USD (năm 2017 là khoảng 8.300 USD, năm 2018 là 8.400 USD), hơn gấp đôi, và khoảng cách này vẫn tăng qua các năm.
- Về chất lượng tăng trưởng và hiệu quả kinh tế : Mặc dù kinh tế Việt Nam đã có những bước tăng trưởng khá, nhưng chất lượng tăng trưởng còn thấp và thiếu bền vững, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế chưa cao. Bình quân giai đoạn 2005-2014, Việt Nam sử dụng 1 đơn vị năng lượng tạo ra khoảng 7,0 đồng GDP, thấp hơn Xin-ga-po 2 lần; Phi-li-pin 1,79 lần; Ma-lai-xi-a 1,13 lần và Thái Lan 1,09 lần.
- Về năng suất lao động: NSLĐ của Việt Nam thời gian qua có sự cải thiện đáng kể theo hướng tăng đều qua các năm[3]. Tuy nhiên, mức NSLĐ của Việt Nam hiện nay vẫn rất thấp so với các nước trong khu vực: Tính theo PPP 2011, NSLĐ của Việt Nam năm 2017 đạt 10.232 USD, chỉ bằng 7,2% mức năng suất lao động của Xin-ga-po; 18,4% của Ma-lai-xi-a; 36,2% của Thái Lan; 43% của In-đô-nê-xi-a và bằng 55% của Phi-li-pin. Đáng chú ý là chênh lệch về mức NSLĐ giữa Việt Nam với các nước vẫn tiếp tục gia tăng[4]. Về năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP): thực tế nhiều năm qua tăng trưởng kinh tế của nước ta vẫn chủ yếu dựa vào đóng góp của yếu tố vốn và lao động. Tỷ lệ đóng góp của TFP cho tăng trưởng GDP của Việt Nam còn ở mức thấp so với các nước trong khu vực. Trong giai đoạn 2011-2015, đóng góp của TFP của Việt Nam được nâng là 33,58%, vẫn thấp hơn tỷ lệ đóng góp TFP của Thái Lan giai đoạn này là 59% và Phi-li-pin là 46%. Tỷ lệ đóng góp của TFP trong tăng trưởng GDP cho thấy trình độ phát triển khoa học và công nghệ, ý thức tổ chức và quản lý trong sản xuất kinh doanh của lao động Việt Nam còn chưa đáp ứng được yêu cầu của nền sản xuất hiện đại.
- Hiệu quả đầu tư: Trong nhiều năm qua, nền kinh tế nước ta vận hành theo mô hình tăng trưởng chủ yếu dựa vào yếu tố vốn. Giai đoạn 2001-2010, tỷ lệ vốn đầu tư phát triển bằng 41,6% GDP, đến giai đoạn 2011-2017, mặc dù tỷ lệ này giảm xuống còn 32,1% nhưng vẫn là mức cao so với nhiều nước trong khu vực. Việc sử dụng vốn hiện nay còn lãng phí, thất thoát nên hiệu quả đầu tư thấp, thể hiện qua hệ số ICOR[5]. Theo Tổng cục Thống kê, hệ số ICOR của Việt Nam đã tăng từ 4,04 những năm 2001-2005 tăng lên 6,08 những năm 2006-2010 và 6,25 những năm 2011-2015. Năm 2022, theo ước tính, ICOR đã giảm xuống còn khoảng 5,92, nhưng so với các nước trong khu vực, đây là hệ số ICOR cao (Trong giai đoạn 2011-2015, hệ số ICOR của Phi-li-pin là 3,98; Ma-lai-xi-a là -5,05).
- Về năng lực đổi mới, sáng tạo : Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới đã công bố xếp hạng về Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu GII (đánh giá về trình độ công nghệ của 126 quốc gia và vùng lãnh thổ) năm 2018, Việt Nam xếp thứ 45 thế giới, sau Xin-ga-po (xếp thứ 5 trong nhóm dẫn đầu), Ma-lai-xi-a (35) và Thái Lan (44). Tính sẵn có về công nghệ mới của Việt Nam đã tăng từ vị trí 133/142 trong năm 2011-2012 lên vị trí 112/144 năm 2017-2018 nhưng thấp hơn rất nhiều so với Ma-lai-xi-a (vị trí 35), Thái Lan (56), In-đô-nê-xi-a (67), Phi-li-pin (73) và thấp hơn cả Cam-pu-chia (93).
Khả năng tiếp nhận công nghệ của doanh nghiệp Việt Nam tiếp tục tụt dốc, từ xếp hạng 88 năm 2011-2012 xuống vị trí 93 trong năm 2017-2018, là quốc gia được xếp hạng có vị trí thấp nhất trong khu vực ASEAN, trong đó Ma-lai-xi-a xếp thứ 17, Phi-li-pin 51, In-đô-nê-xi-a 39, Thái Lan 42 và Cam-pu-chia 90.
Về hiệu quả và chuyển giao công nghệ từ các doanh nghiệp FDI, năm 2017-2018 Việt Nam xếp thứ 89, giảm 27 bậc so với năm 2011-2012, trong khi Xin-ga-po xếp thứ 2, Ma-lai-xi-a 13, Thái Lan 40, In-đô-nê-xi-a 44, Cam-pu-chia 54, Hàn Quốc 55, Phi-li-pin 63. Về hiệu quả đổi mới, năm 2017-2018 Việt Nam xếp thứ 79 (tụt 21 bậc so với hạng 58 của năm 2011-2012), thấp hơn Ma-lai-xi-a (xếp thứ 14), Xin-ga-po (20), In-đô-nê-xi-a (31), Phi-li-pin (45), Thái Lan (69), chỉ cao hơn Cam-pu-chia (107).
Cần nhận thức rõ nguy cơ tụt hậu trên nhiều mặt về kinh tế vẫn còn hiện hữu; để trên cơ sở đó đẩy mạnh đổi mới mô hình tăng trưởng, gắn với đẩy mạnh phát triển và ứng dụng khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo, hoàn thiện thể chế để tạo động lực phát triển đất nước nhanh - bền vững. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đặt ra các mục tiêu phát triển: - Đến năm 2025: Là nước đang phát triển, có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp; - Đến năm 2030: Là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; - Đến năm 2045: Trở thành nước phát triển, thu nhập cao.
Bối cảnh quốc tế và điều kiện trong nước đang đặt ra những cơ hội lớn lao cùng những thách thức không nhỏ đối với sự phát triển của Việt Nam trong giai đoạn mới.
Về những cơ hội lớn
i) - Việt Nam có cơ hội lớn gắn sự phát triển của Việt Nam với dòng chảy phát triển tiên tiến chung của nhân loại; có cơ hội tiếp tục đẩy mạnh hợp tác và hội nhập quốc tế trong giai đoạn mới, nhất là với các nước phát triển, các nền kinh tế mới nổi. Điều này cũng có nghĩa là cơ hội lớn để Việt Nam thực hiện được đường lối phát triển “kết hợp được sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại”. Sự hội nhập quốc tế không chỉ về kinh tế, mà tổng hợp cả về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, bảo vệ môi trường sinh thái…; điều này góp phần tạo nên sức mạnh tổng hợp cho sự nghiệp bảo vệ hòa bình, xây dựng và bảo vệ đất nước trong thế giới có nhiều biến động khó lường[6].
ii) - Việc thiết lập quan hệ quốc tế “đa diện”, “đa cấp độ”, “đa chiều” với các nước phát triển, các nước mới nổi, các nước đang phát triển và các nước khác tạo cơ hội và điều kiện cho Việt Nam hình thành được “thế cân bằng chiến lược” trong quan hệ quốc tế (theo nghĩa tạo được môi trường chiến lược về quan hệ quốc tế có lợi nhất cho đất nước), góp phần quan trọng vào việc bảo vệ môi trường hòa bình, hợp tác phát triển, bảo vệ độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước.
iii) - Về mặt kinh tế: Việt Nam tiếp tục có cơ hội lớn phát triển quan hệ kinh tế sâu rộng hơn với nền kinh tế thế giới, nhất là với các nước phát triển (cả về đầu tư, thương mại hàng hóa và dịch vụ, chuyển giao công nghệ, tham gia vào các chuỗi giá trị, chuỗi cung ứng toàn cầu…, nhất là thông qua việc tham gia vào các hiệp định thương mại tự do)[7]; có cơ hội học hỏi, tiếp thu kinh nghiệp xây dựng thể chế kinh tế thị trường hiện đại, hiệu quả; phát triển các mô hình kinh tế mới, tiên tiến, hiện đại, thân thiện với môi trường (kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tần hoàn…); có cơ hội phát triển nội lực và nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam trong quan hệ kinh tế quốc tế.
iv) - Về mặt chính trị: Việt Nam có cơ hội tiếp tục tham gia sâu rộng hơn vào hoạt động của các thể chế quốc tế, có điều kiện và cơ hội tham gia tiếng nói của mình vào xây dựng các thể chế, “luật chơi” chung của quốc tế; đồng thời, có cơ hội đẩy mạnh phát triển quan hệ song phương với các nước có thể chế chính trị - xã hội khác nhau (nhất là với các nước phát triển), trên cơ sở đó có điều kiện nhận thức rõ hơn cả về lý luận và thực tiễn về xây dựng các mô hình phát triển của các nước, từ đó rút ra những kinh nghiệm, bài học quý báu cho Việt Nam. Đồng thời, đây cũng là cơ hội để Việt Nam làm cho bạn bè quốc hiểu rõ hơn các giá trị phát triển, giá trị của thể chế dân chủ pháp quyền mà Việt Nam xây dựng, trong đó chứa đựng những đặc trưng bản chất của chế độ chính trị - xã hội phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đồng thời chứa đựng những giá trị tốt đẹp chung của nhân loại.
v) - Về mặt văn hóa - xã hội: Việt Nam có cơ hội nhận thức rõ hơn và tiếp cận với các vấn đề phát triển văn hóa - xã hội trên thế giới, nhất là sự phát triển về phương diện xã hội, quản lý phát triển xã hội, phát triển các giá trị con người, quyền con người, phát triển hệ thống an sinh xã hội trên thế giới, nhất là ở các nước phát triển, với những khuynh hướng và đặc trưng khác nhau (tích cực, hạn chế và tiêu cực); nhìn nhận những giá trị chung của nhân loại trong quá trình phát triển. Trên cơ sở đó, Việt Nam sẽ rút kinh nghiệm, xây dựng các giá trị đặc trưng và chính sách xã hội của mình về phát triển con người, về gia đình, về xã hội, về quốc gia - dân tộc trong quá trình phát triển và hội nhập quốc tế. Đồng thời, Việt Nam cũng có cơ hội tiếp cận với những nền văn hóa lớn trên thế giới; học hỏi những tinh hoa của nhân loại; mặt khác, Việt Nam cũng có cơ hội “đưa” những giá trị văn hóa đặc sắc của mình hội nhập quốc tế, góp phần nâng cao “sức mạnh mềm” của đất nước trong hội nhập quốc tế.
vi) - Về ứng phó với biến đổi khí hậu và bảo vệ môi trường sinh thái: Hợp tác quốc tế trong các lĩnh vực này, nhất là với các nước phát triển, Việt Nam có cơ hội tranh thủ được kinh nghiệm và công nghệ quốc tế; sự hỗ trợ, hợp tác và đầu tư quốc tế để thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ đặt ra. Đồng thời tham gia với cộng đồng quốc tế trong việc chung tay giải quyết những vấn đề chung của nhân loại về bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu.
Vii) - Cách mạng công nghiệp lần thứ Tư (4.0) đang tăng tốc mạnh mẽ, nhất là ở các nước phát triển, đang tạo ra cơ hội rất lớn cho các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam, tiếp thu được những thành tựu khoa học - công nghệ hiện đại và đổi mới sáng tạo, nhất là từ các nước phát triển, để hiện đại hóa lực lượng sản xuất, công nghiệp hóa theo hướng hiện đại, thực hiện quá trình “phát triển rút ngắn”, nhanh - bền vững (nếu có đường lối và chiến lược phát triển đúng đắn, phù hợp).
viii) - Hợp tác và hội nhập quốc tế, nhất là với các nước phát triển, thông qua các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, với những khung pháp lý, chuẩn mực cao, yêu cầu cao về mọi mặt, tạo cơ hội “thúc đẩy” (và đòi hỏi) Việt Nam phải đẩy nhanh việc xây dựng và hoàn thiện thể chế phát triển nhanh - bền vững, tổng hợp, đồng bộ cả về kinh tế, chính trị, xã hội, môi trường sinh thái (Văn kiện Đại hội XIII của Đảng).
ix) - Hợp tác có hiệu quả với các nước phát triển về giáo dục, đào tạo sẽ tạo cơ hội lớn cho Việt Nam tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới căn bản toàn diện nền giáo dục trong giai đoạn mới; đồng thời, là một “kênh” rất quan trọng để đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, trình độ cao; tạo cơ hội để nền giáo dục - đào tạo Việt Nam hội nhập với xu thế phát triển chung của thế giới.
x) - Việt Nam có cơ hội hợp tác có hiệu quả với các nước, nhất là các nước phát triển, về khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo trong nhiều lĩnh vực; đặc biệt là các lĩnh vực khoa học - công nghệ nòng cốt của cách mạng công nghiệp 4.0 (như trí tuệ nhân tạo, công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, Robots, vật liệu mới, năng lượng sạch, bảo vệ môi trường…); góp phầm nâng cao năng lực KHCN nội tại của đất nước, thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Về những thách thức lớn
Do “thế và lực”, trình độ phát triển của đất nước dù được nâng lên đáng kể qua 40 năm đổi mới, nhưng vẫn còn khoảng cách khá xa so với trình độ của nhiều nước trên thế giới, nhất là so với các nước phát triển, nên phát triển đất nước và hội nhập quốc tế trong giai đoạn mới sẽ còn phải “đối mặt” với những thách thức không nhỏ, đó là:
i). Thách thức về khoảng cách chênh lệch tiềm lực kinh tế và trình độ phát triển: Đẩy mạnh hợp tác và hội nhập quốc tế, nhất là với những nước có trình độ phát triển cao hơn, bên cạnh những cơ hội, cũng đặt ra những thách thức lớn về sự chênh lệch tiềm lực kinh tế, về trình độ công nghệ, trình độ của nền sản xuất, trình độ của thể chế kinh tế, về chất lượng nguồn nhân lực, về kinh nghiệm quản lý - quản trị phát triển, về mức độ tham gia vào các chuỗi cung ứng toàn cầu…, điều này thường có thể dẫn đến những “thua thiệt” về lợi ích. Sự chênh lệch về tiềm lực và trình độ phát triển đưa đến thách thức lớn hơn về cạnh tranh (cạnh tranh quốc gia, cạnh tranh doanh nghiệp và cạnh tranh về hàng hóa, dịch vụ) trong hội nhập quốc tế; dó đó, nguy cơ tụt hậu về kinh tế vẫn còn hiện hữu.
Đồng thời, kinh tế thế giới đang và sẽ có thể còn tiếp tục gặp khó khăn; phát triển chậm, không bền vững, có thể đan xen những suy giảm, suy thoái. Trong khi đó, các thị trường lớn mà Việt Nam dựa vào nhiều để phát triển như EU, Mỹ, Nhật, Trung quốc... cũng đang gặp nhiều khó khăn, mức độ phục hồi chậm. Thách thức về huy động nguồn lực phát triển của Việt Nam sẽ càng lớn hơn. Nếu không xây dựng được cơ chế, chính sách phù hợp để vượt lên, sẽ đẫn đến sự “lệ thuộc” về nhiều mặt; đồng thời khó thoát khỏi nguy cơ tụt hậu xa hơn so với các nước trong khu vực và trên thế giới.
ii). Thách thức do cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn tạo ra sức ép về “chọn bên”. Cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn (trước hết là Mỹ và Trung Quốc) về vai trò ảnh hưởng về địa chính trị tại khu vực Biển Đông, Đông Nam Á, Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương; cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn trên bình diện thế giới nói chung, làm cho cấu trúc quan hệ quốc tế và nền kinh tế thế giới bị “phân mảnh”, quá trình toàn cầu hóa bị “biến dạng” dưới tác động của các “cực” đã và đang hình thành…, gây sức ép (thậm chí dùng các đối sách) buộc các nước đang phát triền, kém phát triển, với tiềm lực hạn chế, phải “chọn bên”, làm tổn hại đến lợi ích của các nước này.
iii). Thách thức về khoảng cách công nghệ, khoảng cách số: Cách mạng công nghiệp lần thứ Tư, mà các nước phát triển đóng vai trò chủ đạo, đã, đang và sẽ tạo nên “khoảng cách công nghệ”, “khoảng cách số”, “khoảng cách trí tuệ nhân tạo” rất lớn giữa các nước này với các nước còn lại, “hố ngăn cách” này sẽ khó được khắc phục nếu các nước đang phát triển và kém phát triển không có được một chiến lược và giải pháp phát triển phù hợp, hiệu quả. Đây là nguyên nhân cơ bản của sự “tụt hậu”, dễ rơi vào “bẫy thu nhập trung bình” của nhiều nước đang phát triển, trong đó có thể có Việt Nam.
iv) - Thách thức đối với việc thực hiện quá trình công nghiệp hóa theo hướng hiện đại: Cuộc cánh mạng công nghiệp lần thứ tư đang tăng tốc mạnh mẽ trên toàn cầu, gắn với quá trình toàn cầu hóa, làm thay đổi cấu trúc kinh tế, thay đổi nội dung, phương thức công nghiệp hóa, nhất là đối với các nước đang phát triển, công nghiệp hóa muộn. Trong bối cảnh đó, các chính sách và mô hình công nghiệp hóa trên thế giới đã có nhiều thay đổi. Với việc hình thành ngày càng nhiều các chuỗi cung ứng toàn cầu (GVCs) gắn vai trò chi phối ngày càng tăng của các tập đoàn xuyên quốc gia (MNEs) đã đem lại không chỉ cơ hội, mà cả những thách thức không nhỏ đối với quá trình công nghiệp hóa ở các nước công nghiệp hóa muộn (bị đe dọa mất không gian cho các chính sách phát triển công nghiệp dân tộc; khi thu hút được nhiều đầu tư FDI vào phát triển công nghiệp, có nước “ỷ lại” hay phụ thuộc quá mạnh vào công nghiệp FDI, nền kinh tế nội địa thiên về phát triển dịch vụ, công nghiệp nội địa không được chú trọng đầu tư phát triển đúng mức, đã dẫn đến trạng thái mà thế giới gọi là sớm “giải công nghiệp hóa”). Khoảng cách công nghệ, khoảng cách số cũng là những yếu tố quan trọng sẽ tạo nên thách thức lớn đối với quá trình công nghiệp hóa theo hướng hiện đại. Nếu không tạo và làm chủ được một tiềm lực công nghệ dân tộc tiên tiến, đủ mạnh, mà chủ yếu dựa vào lực lượng công nghệ của doanh nghiệp FDI, thì quá trình công nghiệp hóa theo hướng hiện đại khó có thể thành công. Vì vậy, đồng thời cùng với việc phải nâng cấp năng lực thích ứng chính sách đối với các đổi mới nhanh, đột biến trên thế giới, thì việc tối quan trọng là phải tích lũy và nâng cao được năng lực công nghệ dân tộc.
iv). Thách thức về xây dựng thể chế phát triển. Ngày nay, trên thế giới, có sự thống nhất cao rằng thể chế đóng vai trò quyết định đối với sự phát triển của một đất nước; thể chế phù hợp sẽ tạo được động lực phát triển nhanh - bền vững, thể chế không phù hợp sẽ kìm hãm sự phát triển, thậm chí làm biến dạng quá trình phát triển. Nhưng để xây dựng được một thế chế phát triển đồng bộ, tổng hợp về kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa, môi trường sinh thái, trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế sâu rộng là không dễ dàng (thực tiễn trên thế giới cho thấy, trong vài ba thập kỷ gần đây, trong gần 100 nước đang phát triển, chỉ có gần 20 nước thoát khỏi “bẫy thu nhập trung bình”). Đây cũng là thách thức lớn đối với Việt Nam trong xây dựng và thực thi thể chế phát triển nhanh - bền vững (đây là một nhiệm vụ trọng yếu đã được nhấn mạnh trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng).
v). Thách thức về nhận thức và thực tiễn phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa: Quá trình phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa từ một nước có trình độ phát triển còn thấp như Việt Nam trong dòng chảy phát triển và hội nhập quốc tế với những nước tiến tiến, có trình độ phát triển cao hơn, còn nhiều vấn đề chưa nhận thức rõ, chưa đầy đủ cả về lý luận và thực tiễn. Đòi hỏi phải có cách tiếp cận, tư duy sáng tạo rất lớn, rất hiện thực; để có thể kết nối có hiệu quả những giá trị đặc trưng của Việt Nam phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa với những giá trị chung của nhân loại trong quá trình phát triển.
vi). Thách thức trong việc tham gia ký kết và thực hiện các hiệp định song phương và đa phương với trình độ cao. Trong lĩnh vực kinh tế, việc tham gia ký kết các hiệp định đa phương và song phương với các nền kinh tế phát triển cao hơn, cùng với những cơ hội là những thách thức lớn đặt ra, đó là: các thể chế, tiêu chuẩn và quy định thường cao hơn (dù có những “ưu tiên” nhất định cho các nước có trình độ thấp hơn) cả về thương mại hàng hóa, dịch vụ, về đầu tư, về sở hữu trí tuệ, về chất lượng sản phẩm, về truy xuất xuất xứ hàng hóa, về bảo vệ môi trường, về sử dụng lao động, về đầu tư công, về sử dụng các hàng rào kỹ thuật để bảo vệ nền kinh tế, sử dụng các quy định về “thuế tối thiểu toàn cầu” đối với các tập đoàn xuyên quốc gia (đa quốc gia), thậm chí sử dụng các “lệnh trừng phạt”, để bảo vệ lợi ích của mình. Đây là những thách thức rất lớn đối với các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam. Nếu không hoàn thiện và nâng cao được chất lượng thể chế phát triển nội tại của đất nước, không nâng cao được “nội lực” lên, sẽ không tận dụng được có hiệu quả cao các cơ hội, hóa giải được các thách thức đặt ra.
vii). Thách thức về thu hút và nâng cao hiệu quả đầu tư FDI. Đầu tư FDI và các doanh nghiệp FDI có vai trò rất quan trọng đổi với các nước đang phát triển như Việt Nam. Nhưng nếu không tạo được sự kết nối hữu cơ, có hiệu quả với các doanh nghiệp trong nước (về chuyển giao công nghệ, tham gia vào các chuỗi cung ứng, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao…), sẽ tạo thành “hai nền kinh tế” bị phân mảnh trong một nước và trong hội nhập quốc tế; những lợi ích sẽ bị nghiêng nhiều về phía các doanh nghiệp FDI (kể cả trên thị trường quốc tế và trong thị trường nội địa). Nếu không có một chiến lược công nghiệp hóa, hiện đại hóa đúng đắn để phát triển lực lượng doanh nghiệp dân tộc hiện đại, có năng lực hội nhâp cao, sẽ dẫn đến tình trạng “giải công nghiệp hóa” sớm, sẽ càng làm cho nền kinh tế dân tộc phụ thuộc nặng hơn vào đầu tư FDI. Điều này ánh hưởng trực tiếp đến năng lực đảm bảo độc lập tự chủ của nền kinh tế đất nước trong phát triển và hội nhập quốc tế.
viii). Thách thức về đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, trình độ cao. Để xây dựng và thực hiện có hiệu quả thể chế phát triển nhanh - bền vững đất nước, thực hiện thành công quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa; thực hiện được các mục tiêu phát triển đặt ra đối với đất nước đến năm 2030, đưa đất nước trở thành nước phát triển có thu nhập cao vào năm 2045, trong bối cảnh quốc tế mới, cần phải có nguồn lực con người với tư cách là chủ thể của quá trình phát triển, đáp ứng với những đòi hỏi đó; đòi hỏi phải đào tạo đồng bộ nguồn nhân lực chất lượng cao, trình độ cao trong tất cả các lĩnh vực và ở tất cả các cấp độ (từ đội ngũ cán bộ lãnh đạo - quản lý - công chức các cấp, đến đội đội ngũ cán bộ khoa học - công nghệ, đội ngũ doanh nhân, đội ngũ chuyên viên, cán bộ kỹ thuật, công nhân lành nghề, đến đội ngũ chủ hộ nông dân sản xuất kinh doanh giỏi). Sự đồng bộ giữa ba thành tố “con người - thể chế - công nghệ” ở trình độ cao mới tạo thành “cỗ xe tam mã” đưa đất nước phát triển nhanh - bền vững. Nhưng hiện nay, nhìn tổng thể, nguồn nhân lực của Việt Nam còn nhiều bất cập cả về chất lượng và cơ cấu trình độ trong tất cả các lĩnh vực và ở tất cả các cấp độ, chưa đáp ứng yêu cầu cao của đất nước trong giai đoạn mới.
ix). Thách thức về nâng cao năng lực độc lập - tự chủ của nền kinh tế. Năng lực độc lập - tự chủ của nền kinh tế Việt Nam trong hội nhập quốc tế, mặc dù không ngừng được nâng lên, nhưng còn nhiều hạn chế và bất cập; chưa tận dụng có hiệu quả cao các cơ hội, đồng thời cũng chưa “hóa giải” thực sự có hiệu quả các thách thức đặt ra, làm hạn chế chất lượng và hiệu quả hội nhập quốc tế. Nâng cao năng lực độc lập - tự chủ của nền kinh tế trong hội nhập quốc tế vừa là một đòi hỏi bức thiết, đồng thời cũng là một thách thức lớn đặt ra trong giai đoạn phát triển mới[8].
x). Thách thức về tác động của những biến đổi, xu hướng phát triển mới về đời sống, lối sống, giá trị sống (giá trị con người, giá trị gia đình, giá trị văn hóa, giá trị xã hội) khi không có khả năng thích ứng có hiệu quả, nhất là đối với những tác động không thuận, tác động tiêu cực trong phát triển các lĩnh vực xã hội. Trong bối cảnh toàn cầu hóa ngày càng mạnh mẽ và sâu rộng, nhất là dưới tác động của các mạng xã hội, các nền tảng công nghệ xuyên biên giới, của thông tin - truyền thông, cùng với những giá trị tốt đẹp, tích cực của nhân loại và của các nước mà ta có thể học hỏi, tiếp thu sáng tạo; còn có không ít những giá trị văn hóa, xã hội, con người không phủ hợp với truyền thống và yêu cầu phát triển của đất nước, thậm chí có tác động tiêu cực và phản động, có thể “thâm nhập” và lan tỏa trong xã hội Việt Nam. Đây là một thách thức có tính thường trực, lâu dài, không thể xem thường, vì nó tác động đến quá trình hình thành động lực tinh thần, giá trị xã hội của mỗi con người, của mỗi gia đình, mỗi cộng đồng và của cả quốc gia - dân tộc trong quá trình phát triển.
xi). Thách thức về trình độ - năng lực quản lý phát triển và hội nhập quốc tế không theo kịp với sự phát triển, nhất là trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp 4.0. Có thể dự báo rằng trong những thập kỷ sắp tới, tốc độ phát triển của thế giới dưới tác động của cách mạng công nghiệp 4.0 sẽ diễn ra rất nhanh, đột biến và đa dạng. Điều đó làm thay đổi và đòi hỏi phải nâng cao hơn rất nhiều chất lượng và trình độ các thể chế, các quy định, các tiêu chuẩn hội nhập quốc tế (cả song phương và đa phương). Sự bất cập về năng lực hội nhập quốc tế (về hiểu biết luật pháp quốc tế, luật pháp của các đối tác, hiểu biết về các quy định bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của mình, về các giải pháp phòng vệ và chống lại gian lận, giả mạo trong thương mại và đầu tư, về năng lực phản ứng chính sách…) của đội ngũ cán bộ công chức nhà nước, của đội ngũ chuyên gia, của đội ngũ doanh nhân, của bản thân những người lao động tham gia vào quá trình hội nhập quốc tế, sẽ đều có thể đưa đến những “thua thiệt”, kém hiệu quá trong hội nhập quốc tế; hạn chế hiệu quả sử dụng các ngồn lực của đất nước trong quá trình phát triển. Đồng thời, với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin, các mạng xã hội, công nghệ số, trí tuệ nhân tạo, thương mại điện tử… đang đặt ra những thách thức lớn về đổi mới và nâng cao hiệu lực, hiệu quả của phương thức quản lý - quản trị phát triển không chỉ của Nhà nước mà còn của toàn bộ xã hội. Điều này đang đặt ra phải đẩy mạnh đổi mới phương thức quản lý - quản trị phát triển trên toàn cầu và trong mỗi nước.
Nhận rõ bối cảnh quốc tế và trong nước, nhất là những cơ hội và thách thức đã và sẽ đặt ra trong giai đoạn mới, sẽ là một trong những cơ sở quan trọng để xác định mục tiêu, định hướng chiến lược và những giải pháp phát triển đất nước trong giai đoạn mới./.
PGS.TS Trần Quốc Toản
Chuyên gia cao cấp
(Ghi chú: Sản phẩm của Đề tài cấp nhà nước: Chủ nghĩa tư bản hiện đại - vai trò, tác động đến tiến trình phát triển của thế giới và định hướng chình sách của Việt Nam; mã số KX.04.08/21-25).
[1] Trong cuốn sách “Capital in the Twenty-First Century - Tư bản trong thế kỷ 21”, Thomas Piketty chỉ ra rằng: thu nhập từ tư bản, có tốc độ tăng cao hơn nhiều so với thu nhập từ sức lao động (thường thấp hơn tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế). Hiên nay, ở các nước phát triển, thu nhập từ tư bản vào khoảng 4-5%/năm, trong khi đó tốc độ tăng trưởng thu nhập quốc dân của các nước này chỉ vào khoảng 1-2%/năm. Thomas Piketty đưa ra “quy luật cơ bản của chủ nghĩa tư bản”: ở các nước phát triển tổng giá trị tư bản của nền kinh tế so với tổng thu nhập quốc dân hàng năm thường ở mức 5-6 lần. Ví dụ ở các nước như Pháp, Anh, Đức, Ý, Mỹ, Nhật Bản, thu nhập quốc dân đầu người chừng 30.000-35.000 euro/năm, còn tổng sản nghiệp đầu người (tức tư bản) chừng 150.000-200.000 euro. Do đó, nếu tổng tư bản bằng sáu năm tổng thu nhập quốc dân và nếu tỷ lệ thu nhập từ tư bản là 5% thì phần chia cho tư bản từ thu nhập quốc dân là 30%.
[2] Đến tháng 8/2023, Hội nghị thượng đỉnh BRICS đã chấp nhận thêm sự tham gia chính thức, bắt đầu từ 1/2024, của 6 nước, gồm Argentina, Ai Cập, Ethiopia, Iran, Saudi Arabia, Các Tiểu vương quốc Arab Thống nhất UAE, tạo nên một khu vực kinh tế có GDP khoảng 65.000 tỷ USD (theo ppp), chiếm khoảng 37% GDP toàn cầu, trong khi GDP của G7 chỉ chiếm khoảng 29,9% GDP toàn cầu; còn khoảng hơn 20 nước đã đề xuất nguyện vọng được tham gia nhóm BRICS).
[3] Google LLC (Công ty TNHH Google) là một công ty công nghệ đa quốc gia của Mỹ, nhưng 1/2023, Chính phủ Mỹ đã kiện Google vì độc quyền công nghệ quảng cáo trực tuyến (Bộ Tư pháp và 8 bang của Mỹ đã kiện, yêu cầu giải thể mảng kinh doanh quảng cáo của Google với cáo buộc công ty này độc quyền bất hợp pháp công nghệ quảng cáo kỹ thuật số).
[4] Thuế tối thiểu toàn cầu được đưa ra vào ngày 8/10/2021 tại Diễn đàn hợp tác toàn cầu về Chương trình chống xói mòn cơ sở thuế và dịch chuyển lợi nhuận (BEPS). Trong đó, Trụ cột 2 quy định về thuế suất thuế tối thiểu toàn cầu (15%) dự kiến áp dụng từ 2024. Nguyên tắc này cho phép nước đầu tư đánh thuế tối thiểu 15% đối với thu nhập được miễn, giảm thuế tại nước nhận đầu tư. Việc đó tác động nhiều chiều đến những nước đang phát triển như Việt Nam, nhất là trong việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài FDI.
[1] Thực trạng kinh tế - xã hội Việt Nam so với các nước trong khu vực. Tổng cục Thống kê, 2018.
[2] GDP bình quân đầu người của Việt Nam năm 2017 tương đương với GDP bình quân đầu người của Thái Lan năm 2003.
[3] NSLĐ xã hội của toàn nền kinh tế theo giá hiện hành năm 2011-2017 lần lượt là: 55,2 triệu đồng/lao động; 63,1 triệu đồng/lao động; 68,7 triệu đồng/lao động; 74,7 triệu đồng/lao động; 79,4 triệu đồng/lao động; 84,5 triệu đồng/lao động; 93,2 triệu đồng/lao động.
[4] Chênh lệch mức NSLĐ (tính theo PPP 2011) của Xin-ga-po tăng từ 119.117 USD năm 2008 lên 131.192 USD năm 2017; tương tự, của Ma-lai-xi-a từ 43.731 USD lên 45.295 USD; Thái Lan từ 14.930 USD lên 18.071 USD; In-đô-nê-xi-a từ 10.451 USD lên 13.555 USD; Phi-li-pin từ 6.609 USD lên 8.385 USD (Nguồn số liệu: Cơ sở dữ liệu các chỉ số phát triển thế giới, Ngân hàng Thế giới).
[5] Hệ số ICOR là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp phản ánh cần bao nhiêu đồng vốn đầu tư để tăng thêm 1 đồng tổng sản phẩm trong nước (GDP). Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư ICOR thường tính cho giai đoạn vì: (1) Hiệu quả đầu tư thường có độ trễ; (2) Nếu tính hệ số ICOR cho 1 năm riêng lẻ, đồng thời tăng trưởng của năm đó âm (-) thì kết quả không có ý nghĩa (Ví dụ trong trường hợp của Ma-lai-xi-a năm 2009 có tăng trưởng GDP là -1,51%, dẫn đến ICOR của năm này là -11,78%).
[6] Việt Nam nằm trong mạng lưới liên kết kinh tế rộng lớn với 59 đối tác, trong đó 05 nước thành viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, 15/20 nước thuộc Nhóm G20 và nhiều nền kinh tế mới nổi khác.
[7] Theo tính toán của Ngân hàng thế giới (WB), nếu các điều kiện đều thuận lợi, riêng Hiệp định CPTPP sẽ giúp GDP của Việt Nam tăng thêm 2,1% vào năm 2035[7]; hiệp định FTA Việt Nam-EU giúp kinh tế Việt Nam tăng thêm 0,5% GDP, xuất khẩu tăng từ 4 - 6%/ năm và tăng thêm 16 tỷ USD vào năm 2025… Nhiều tổ chức nghiên cứu quốc tế cũng đánh giá Việt Nam là một trong những nước có cơ hội hưởng nhiều lợi ích kinh tế từ các FTA mới; nhiều hàng hóa của Việt Nam sẽ có lợi thế cạnh tranh hơn hàng hóa của các nước khác tại thị trường của các đối tác ký kết FTA với Việt Nam (như Mỹ, EU, Nhật Bản, Ca-na-đa…) nhờ thuế suất nhập khẩu giảm xuống 0%
[8] Sự hạn chế về năng lực độc lập - tự chủ của nền kinh tế thể hiện trên một số mặt chủ yếu sau:
- Tiềm lực của nền kinh tế được nâng lên, nhưng quy mô còn nhỏ bé so với dân số gần 100 triệu người, nguy cơ tụt hậu, rơi vào “bẫy thu nhập trung bình” của nền kinh tế nước ta vẫn còn hiện hữu (Quy mô GDP năm 2022 mới đạt 409 tỷ USD, bình quân đầu người - 4.110 USD; chất lượng tăng trưởng và hiệu quả kinh tế còn thấp và thiếu bền vững, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế chưa cao; năng suất lao động còn thấp hơn nhiều so với các nước; trình độ công nghệ và năng lực đổi mới sáng tạo còn thấp).
- Lực lượng doanh nghiệp nội còn nhỏ bé, hạn chế cả về nguồn lực, vốn, năng lực quản lý, trình độ công nghệ, năng lực cạnh tranh và hội nhập quốc tế (chỉ có khoảng 2000 trên hơn 700.000 doanh nghiệp của cả nước - tức khoảng hơn 0,2% tham gia sản xuất công nghiệp hỗ trợ, trong đó chỉ có khoảng 300 doanh nghiệp tham gia vào chuỗi cung ứng đa quốc gia).
- Tăng trưởng kinh tế, thương mại và đầu tư còn phụ thuộc nhiều vào bên ngoài về vốn, công nghệ, thị trường; do đó tiềm ẩn rủi ro vì chịu tác động bởi các yếu tố kinh tế, chính trị bên ngoài (các doanh nghiệp FDI chiếm hơn 70% hàng hóa xuất khẩu của nước ta, trong đó phần lớn là sản phẩm chế biến chế tạo, kể cả công nghệ cao).
- Năng lực cạnh tranh của sản phẩm hàng hóa và dịch vụ của doanh nghiệp Việt còn thấp (nhiều sản phẩm, hàng hóa và dịch vụ hạn chế về chất lượng, mẫu mã, thương hiệu, xuất xứ…, chủ yếu là sơ chế và gia công với hàm lượng giá trị gia tăng không cao, mức độ tham gia vào các chuỗi giá trị toàn cầu còn hạn chế).