18/04/2024 lúc 16:43 (GMT+7)
Breaking News

Nguyên tắc đồng thuận và sự đoàn kết của ASEAN trong bối cảnh mới

Năm 2021 được coi là một năm đặc biệt đối với Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) nói riêng cũng như nhiều khu vực khác trên thế giới nói chung, khi phải đối mặt cùng lúc với không ít thách thức lớn nổi lên ở cấp độ toàn cầu, như cạnh tranh nước lớn vô cùng quyết liệt, xu thế đa phương gặp nhiều khó khăn…

Năm 2021 được coi là một năm đặc biệt đối với Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) nói riêng cũng như nhiều khu vực khác trên thế giới nói chung, khi phải đối mặt cùng lúc với không ít thách thức lớn nổi lên ở cấp độ toàn cầu, như cạnh tranh nước lớn vô cùng quyết liệt, xu thế đa phương gặp nhiều khó khăn…, nhất là tình hình dịch bệnh COVID-19 tiếp tục diễn biến hết sức phức tạp. Trong bối cảnh như vậy, nhưng với sự đồng lòng của các nước thành viên, ASEAN đã vượt qua được khó khăn, trở ngại và đạt nhiều kết quả quan trọng trên tinh thần đoàn kết nội khối được củng cố, vai trò và uy tín của ASEAN được nâng cao, các ưu tiên hợp tác của ASEAN tiếp tục được thúc đẩy và có nhiều bước tiến mới.

Kiên trì khẳng định rõ nguyên tắc đồng thuận và sự đoàn kết

Gần 55 năm qua, ASEAN không chỉ xây dựng được hình ảnh và uy tín là một tổ chức khu vực thành công, mà còn tạo dựng được thông lệ quen đối thoại, tham vấn và xây dựng lòng tin giữa các nước trong khu vực, cũng như giữa các thành viên tổ chức với các đối tác bên ngoài khu vực; can dự một cách tích cực và chủ động, cùng với các nước lớn quản lý các xung đột ở khu vực; đồng thời, đẩy mạnh hợp tác, hội nhập kinh tế, văn hóa - xã hội ở khu vực Đông Á và rộng hơn là châu Á - Thái Bình Dương.

Những thành công đó của ASEAN được cho là bắt nguồn từ những đặc tính rất riêng biệt của ASEAN - một Hiệp hội khá lỏng lẻo về mặt pháp lý, song lại chặt chẽ về nguyên tắc, tiếp cận tiệm tiến và biến chuyển linh hoạt trong từng giai đoạn cụ thể. Thành công đó còn do phương thức vận hành tổ chức hết sức đặc biệt của ASEAN, đó là sự tôn trọng lẫn nhau, không can thiệp công việc nội bộ của nhau, bình đẳng và đồng thuận trong mọi quyết định. Các đặc tính, phương thức vận hành, thói quen ứng xử và cách thức hợp tác trong nội Khối cũng như đối với bên ngoài đã tạo ra phương cách đặc biệt của ASEAN, với bản sắc riêng, không giống bất cứ tổ chức khu vực nào trên thế giới. Trong khi đó, nguyên tắc đồng thuận là một trong những nguyên tắc hoạt động cơ bản của ASEAN và cũng là nguyên tắc chủ đạo hình thành nên “phương cách ASEAN” - “huyết mạch” giữ cho ASEAN trở thành một khối gắn kết các quốc gia Đông Nam Á. Nguyên tắc đồng thuận đóng vai trò quan trọng hàng đầu trong quá trình hình thành và phát triển của ASEAN, là nền tảng then chốt cho sự hợp tác của Hiệp hội trong nhiều thập niên qua. Đây là nguyên tắc gốc nhằm bảo đảm không một quốc gia thành viên nào bị “gạt ra ngoài lề” trong những vấn đề quan trọng, bảo đảm sự tham gia cân bằng của các bên trong quá trình thực hiện các quyết sách. Đây cũng là nền tảng quan trọng duy trì sự đoàn kết và tính bền vững của ASEAN.

Xét về lịch sử, do hầu hết đều là thuộc địa của các cường quốc, nên các quốc gia Đông Nam Á tuy gần nhau về khoảng cách địa lý nhưng lại chưa thực sự thấu hiểu hết về nhau. Bên cạnh đó, ASEAN được thành lập dựa trên tiền đề ban đầu là mục tiêu chính trị, các quốc gia thành viên chủ yếu muốn tìm kiếm sức mạnh tập thể, dựa vào nhau, nhằm giữ vững nền tảng chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội, duy trì hòa bình và ổn định trong khu vực trước tình hình thế giới có nhiều biến động. Chính vì vậy, việc các quyết định được thông qua bằng hình thức đồng thuận của các quốc gia thành viên sau khi đã trải qua quá trình tham vấn sẽ xây dựng được lòng tin vững chắc cũng như sự tự nguyện và nhất trí tuyệt đối của tất cả các quốc gia ASEAN.

Ngoài ra, ASEAN là khu vực có sự phát triển về kinh tế không đồng đều giữa các quốc gia, hệ thống chính trị giữa các nước thành viên cũng khác nhau, nên việc sử dụng nguyên tắc đồng thuận sẽ giúp các quốc gia, dù lớn hay nhỏ, không cảm thấy bị gò ép hay quan ngại, đều có thể lên tiếng, nhất trí hay phản đối các hoạt động của ASEAN, dù chưa hoặc không phù hợp với trình độ phát triển hoặc tình hình nội tại của đất nước. Mỗi quốc gia đều có một lá phiếu quyết định vận mệnh của ASEAN như nhau trong mọi vấn đề. Đồng thuận cũng giúp các nước ASEAN tìm ra tiếng nói chung, thúc đẩy sự đoàn kết và liên kết trong khu vực ngày càng bền chặt.

Chính sự đồng thuận, có được tiếng nói chung đã góp phần xây dựng hình ảnh ASEAN là một khối vững chắc, giúp ASEAN trở thành động lực của nhiều hợp tác khu vực và liên khu vực. Phương cách ASEAN và nguyên tắc đồng thuận cũng là nền tảng giúp ASEAN thu hút được các nước lớn, các nước bên ngoài khu vực tham gia các diễn đàn của ASEAN. Trong đó, ASEAN sử dụng các cơ chế đối tác, đối thoại, tham vấn và sử dụng nguyên tắc đồng thuận để dẫn dắt, vì vậy các nước, dù lớn hay nhỏ, đều có thể lên tiếng và thể hiện sự can dự của mình ở các cấp độ khác nhau. Qua đó, vị thế và tiếng nói của ASEAN ngày một gia tăng, có thể đóng vai trò trung tâm của hầu hết các thể chế hình thành trong khu vực và liên khu vực.

Như vậy, phương cách ASEAN và nguyên tắc đồng thuận là nguồn nội lực, có tính nội sinh cho sự đoàn kết, sức mạnh của ASEAN, bảo đảm sự tồn tại và phát triển của Hiệp hội. Tuy nhiên, con đường đạt được sự đồng thuận về quyết sách và từ quyết sách đến hành động chưa bao giờ dễ dàng đối với nội bộ ASEAN cũng như trong quan hệ của ASEAN với các nước đối tác lớn. Nguyên tắc đồng thuận có vai trò quan trọng nhưng cũng tồn tại một số điểm yếu. Sự đa dạng về thể chế chính trị, trình độ phát triển kinh tế và nhiều nét khác biệt về văn hóa - xã hội giữa các quốc gia thành viên là một trong những nguyên nhân khiến ASEAN khó đạt được sự đồng thuận nhanh chóng. Về mặt thời gian, thủ tục thông qua quyết định của ASEAN cũng thường chậm chạp, bởi luôn đòi hỏi những cuộc thảo luận và tham vấn lâu dài giữa các bên trước khi đi đến một thỏa thuận cuối cùng. Điều này gây khó khăn không nhỏ trong trường hợp cần đưa ra những quyết định khẩn cấp. Về mặt hiệu quả, để đạt được đồng thuận, nhất là trong các trường hợp cấp bách, các nước ASEAN thường chọn cách thể hiện sự trung dung hoặc thỏa hiệp, qua đó giúp ASEAN giữ được hình ảnh là một tổ chức năng động, biết can dự và có tiếng nói, nhưng lại không thể hành động quả quyết, nhất quán.  

Nguyên tắc đồng thuận cũng tạo ra những hạn chế nhất định trong tiến trình phát triển Cộng đồng ASEAN (AC) nói riêng và ASEAN nói chung. Đối với Cộng đồng Chính trị - An ninh (APSC), ảnh hưởng của nguyên tắc đồng thuận rất rõ rệt bởi liên quan tới vấn đề chính trị - an ninh của các quốc gia. Mỗi quốc gia đều giữ một lá phiếu quyết định, khiến các vấn đề chính trị - an ninh càng khó đạt được sự đồng thuận, nhất là khi vấn đề đó liên quan đến quyền, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và sự tự chủ của một hay nhiều quốc gia thành viên... Trong khi đó, nếu xóa bỏ nguyên tắc đồng thuận, thay vào đó bằng nguyên tắc khác, chẳng hạn như nguyên tắc hoạt động theo đa số, việc xây dựng lòng tin giữa các quốc gia lại gặp khó khăn do quan ngại vấn đề chủ quyền quốc gia bị đe dọa hoặc bị lệ thuộc vào các nước khác.

Đối với Cộng đồng Kinh tế (AEC), do sự đa dạng về trình độ kinh tế, cách thức quản lý kinh tế và những khác biệt trong luật định liên quan đến kinh tế, quá trình thương lượng để có được sự đồng thuận của tất cả các quốc gia thành viên phải mất khá nhiều thời gian, dẫn tới làm chậm quá trình hội nhập kinh tế của các quốc gia thành viên ASEAN, nhất là việc thúc đẩy hợp tác kinh tế với các đối tác bên ngoài Khối. Điều đó cho thấy, nguyên tắc đồng thuận thể hiện rõ những hạn chế trong bối cảnh ASEAN đang nỗ lực tìm kiếm vai trò trung tâm và muốn chủ động hơn trong quá trình thúc đẩy các liên kết kinh tế và xây dựng các thể chế kinh tế ở khu vực.

Đối với Cộng đồng Văn hóa - Xã hội (ASCC), mặc dù các quốc gia thành viên ASEAN thống nhất xây dựng ASCC là một cộng đồng đùm bọc nhau, thân thiện, bình đẳng, tạo động lực và tạo những yếu tố cần thiết để phát triển kinh tế, giữ vững hòa bình, xã hội an toàn, thịnh vượng cho người dân ASEAN cũng như lấy người dân ASEAN làm trung tâm, nhưng các vấn đề liên quan đến con người, sự phát triển của con người lại khá phức tạp, còn không ít sự khác biệt giữa các nước thành viên. Hệ thống chính trị khác nhau kéo theo hệ thống pháp luật, giáo dục khác nhau và trình độ người dân cũng khác nhau, từ đó dẫn đến khó đạt được sự đồng thuận trong các vấn đề liên quan đến quyền con người, nền dân chủ… ASEAN có đầy đủ những kế hoạch tổng thể xây dựng và phát triển ASCC, chia thành nhiều giai đoạn, với sự đồng thuận cao của tất cả các nước thành viên, tuy nhiên, trong quá trình triển khai, nhiều vấn đề trong các kế hoạch tổng thể vẫn bị chậm trễ, phải tìm kiếm những sự đồng thuận tiếp theo.

ASEAN trước bối cảnh thế giới nhiều biến động

Trong bối cảnh tình hình khu vực và trên thế giới luôn biến động khó lường, ASEAN đang đứng trước nhiều thách thức to lớn, cả về truyền thống và phi truyền thống, cả bên trong lẫn bên ngoài khu vực. Sự khác biệt về lợi ích, sự tương tác và tác động đa chiều ở những mức độ khác nhau của các nước lớn đối với nhiều vấn đề trong khu vực đã gây ra những khó khăn cho việc định hình một quan điểm chung của ASEAN về các vấn đề an ninh - chính trị - kinh tế - phát triển của khu vực. Nguyên tắc đồng thuận cũng khiến các quá trình tham vấn kéo dài, thậm chí tạo ra sự khó xử giữa các nước thành viên ASEAN. Hơn nữa, thời gian gần đây, trước những chuyển dịch địa - kinh tế, địa - chính trị mạnh mẽ ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương, Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương, sự cạnh tranh ảnh hưởng của các nước lớn đang phần nào khiến các nước trong khu vực băn khoăn lựa chọn hướng đi cho chính mình. Sự đối đầu leo thang, nhất là cuộc cạnh tranh chiến lược toàn diện giữa Mỹ và Trung Quốc ngày càng gia tăng, đang khiến nhiều quốc gia ASEAN đứng trước bài toán phải tìm cách ứng xử cân bằng. Những vấn đề nội bộ, như các tranh chấp ở biên giới, bất ổn chính trị,… cũng khiến ASEAN khó đạt được sự đồng thuận về quan điểm, cũng như tiếng nói chung để thể hiện được vai trò trung tâm trong các vấn đề khu vực.

Bối cảnh thế giới và khu vực đang buộc ASEAN phải có những điều chỉnh để thích nghi, phải đưa ra được những quyết định đúng đắn và kịp thời nhất để đưa AC ngày càng hội nhập sâu rộng vào thế giới và tiếp tục phát triển hơn nữa. Trong lịch sử phát triển, ASEAN có tính thích nghi rất cao, rất linh hoạt với những điều chỉnh cả về hướng phát triển cũng như xây dựng hình ảnh mới, từ đó vượt qua được các thời kỳ khó khăn, thử thách, phát triển từ một hiệp hội các quốc gia đến một tổ chức khu vực có tư cách pháp nhân cao hơn (Hiến chương ASEAN) và tiến tới một Cộng đồng chung ở khu vực.

ASEAN cũng nỗ lực tìm hướng điều chỉnh nguyên tắc hoạt động bằng những công thức hợp tác mới. Để tăng tính linh hoạt, năng động và đẩy nhanh tiến trình hội nhập kinh tế, ASEAN đã áp dụng công thức “-X” và “2+X” bổ sung cho nguyên tắc đồng thuận. Trong thập niên 20 của thế kỷ XX, trước thực trạng khoảng cách quá lớn giữa ASEAN-6 và bốn nước hội nhập sau là Việt Nam (năm 1995), Lào và Myanmar (năm 1997) và Campuchia (năm 1999), ASEAN đã chuyển sang sử dụng phương thức “ASEAN-X”, theo đó cho phép một số quốc gia thành viên có trình độ phát triển kinh tế cao hơn, hội nhập sâu rộng hơn, có thể đi trước trong tiến trình xây dựng Cộng đồng, phát triển kinh tế, thương mại. Các quốc gia hội nhập sau, khi hội tụ đủ điều kiện sẽ tham gia sau. Trong các thập niên tiếp theo, khi đẩy mạnh hợp tác kinh tế và thực hiện AEC, ASEAN tiếp tục ghi nhận công thức “ASEAN-X”. ASEAN cũng tính đến công thức “2+X”. Cách tiếp cận “2+X” là khi hai nước đủ điều kiện đẩy nhanh hợp tác trong một số lĩnh vực cụ thể, trong khi các nước khác chưa sẵn sàng, có thể thực hiện trước mà không nhất thiết phải có sự tham gia của tất cả hoặc đa số các quốc gia thành viên ASEAN. Các quốc gia có nền kinh tế phát triển có thể tham gia các cam kết kinh tế riêng mà không bị kéo lại bởi các quốc gia có nền kinh tế kém phát triển hơn, ngược lại các quốc gia có nền kinh tế đang phát triển không bị bắt buộc phải gồng mình thực hiện những cam kết khi tình hình trong nước chưa đủ năng lực thực hiện.

 Công thức “ASEAN-X” hay “2+X” có những ưu điểm nhất định song cũng tiềm ẩn nguy cơ đưa thị trường ASEAN trở thành một thị trường vận hành theo nhiều nhóm với các tốc độ khác nhau, không tạo dựng được một thị trường đồng nhất, đan xen nhuần nhuyễn nhằm bổ sung và hỗ trợ cho nhau. Đồng thời, các công thức này mới chỉ áp dụng trong lĩnh vực kinh tế, chưa áp dụng trong lĩnh vực chính trị - an ninh, bởi nguyên tắc đồng thuận vẫn là nguyên tắc bắt buộc trong các vấn đề thuộc lĩnh vực chính trị - an ninh. Bên cạnh đó, Hiến chương ASEAN cũng ghi rõ công thức “ASEAN-X” chỉ được thực hiện trong trường hợp có sự đồng thuận cho phép áp dụng công thức này(1).

Trong lĩnh vực chính trị - an ninh, các quốc gia thành viên ASEAN cũng đã có những thảo luận nhằm điều chỉnh nguyên tắc đồng thuận. Đến nay, giới chuyên gia, học giả khu vực đã đề xuất một số phương án như sau: Một là, ASEAN có thể chuyển sang áp dụng song song cả hai nguyên tắc đồng thuận và nguyên tắc đa số (quá bán hoặc tuyệt đối). Hai là, ASEAN có thể tính tới việc mở rộng áp dụng nguyên tắc “ASEAN-X” từ lĩnh vực kinh tế sang lĩnh vực chính trị - an ninh, nhưng cần có những quy định ngoại lệ cụ thể. Ba là, ASEAN có thể áp dụng khoản 2, Điều 20 của Hiến chương ASEAN quy định rõ “khi không đạt được đồng thuận, Hội nghị thượng đỉnh ASEAN sẽ đưa ra quyết định cụ thể”. Tuy nhiên, các phương án này cũng bộc lộ những hạn chế.

Với phương án thứ nhất và thứ hai, trong trường hợp các quốc gia thành viên ASEAN không thể đạt được đồng thuận về vấn đề nào đó, đã có đề xuất cho rằng cần có sự phân biệt rõ ràng giữa hai loại vấn đề.

Thứ nhất, những vấn đề có tác động đến quyền, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và sự tự chủ của một quốc gia thành viên bất kỳ, thì tất cả các quốc gia thành viên của ASEAN phải tìm kiếm sự đồng thuận và đồng thuận là bắt buộc, không áp dụng nguyên tắc đa số.

Thứ hai, đối với những vấn đề có tác động đến hòa bình và an ninh của khu vực, ASEAN cần áp dụng nguyên tắc ra quyết định dựa trên bỏ phiếu theo đa số. Theo đó, nếu một vấn đề đang được cân nhắc không có tác động rõ ràng tới quyền, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ hoặc sự tự chủ chính trị của một quốc gia thành viên bất kỳ nhưng lại có tác động quan trọng tới hòa bình và an ninh của cả khu vực, thì quốc gia thành viên đó không nên phủ quyết chống lại lợi ích của chín thành viên còn lại và gây phương hại tới hòa bình và an ninh khu vực. Tuy nhiên, với phương cách ASEAN, hình thành cùng quá trình phát triển của ASEAN - luôn bảo đảm sự tôn trọng chủ quyền của tất cả các quốc gia thành viên và tôn trọng quyền bình đẳng của mọi quốc gia thành viên - việc một quốc gia bị loại trừ khỏi một quyết sách về an ninh khu vực là không được chấp nhận. Một cơ chế bỏ phiếu dựa trên “siêu đa số” cũng đã được đưa ra thảo luận nhưng cũng chỉ dừng ở việc bàn thảo. Theo đó, bất cứ quyết định nào được đưa ra cũng cần phải được hậu thuẫn bởi đa số thành viên. Đơn cử như, khi quyết định về các vấn đề hết sức quan trọng, ASEAN có thể áp dụng cơ chế bỏ phiếu theo đa số ba phần tư. Cụ thể là, các quyết định cần được hậu thuẫn bởi ít nhất 8 trong tổng số 10 quốc gia thành viên. Việc này gây ra không ít quan ngại về sự chia rẽ trong nội bộ ASEAN khi có thể tạo thành từng nhóm nước hậu thuẫn cho nhau.

Với phương án thứ ba, ASEAN sẽ phát huy vai trò của lãnh đạo cấp cao trong việc đưa ra các quyết sách cụ thể, nhất là trong những vấn đề có tính cấp thiết, chiến lược, khi không có đồng thuận trong tham vấn ở cấp dưới. Tuy nhiên, từ trước đến nay, ASEAN chưa bao giờ vận dụng điều khoản quy định này, bởi trên thực tế, mọi quá trình tham vấn của ASEAN đều phải đạt được sự đồng thuận theo trình tự từ cấp dưới trình lên cấp cao hơn. Các nội dung khi trình lên các nguyên thủ quốc gia ASEAN đều phải đạt được sự đồng thuận từ rất nhiều cấp thấp bên dưới.

Để ASEAN tiếp tục khẳng định vai trò trung tâm trong bối cảnh mới

Hiện có khá nhiều lập luận của các học giả cho rằng, ASEAN cần giữ nguyên nguyên tắc đồng thuận, không nên xem xét lại, bởi vì:

Một là, bây giờ chưa phải là thời điểm thích hợp để ASEAN xem xét lại nguyên tắc đồng thuận do ASEAN cần tiếp tục xây dựng lòng tin giữa các nước thành viên để bảo đảm sự đoàn kết nội Khối và giữa ASEAN với các đối tác bên ngoài nhằm thúc đẩy cũng như bảo đảm tiếng nói chung của ASEAN trong các liên kết khu vực.

Hai là, việc xem xét lại nguyên tắc đồng thuận sẽ tác động tới lợi ích của từng quốc gia thành viên ASEAN, theo đó không phải tất cả các nước ASEAN đều sẵn sàng cho một sự thay đổi.

Ba là, việc điều chỉnh nguyên tắc đồng thuận hay các nguyên tắc cơ bản khác của ASEAN sẽ làm thay đổi “phương cách ASEAN”, cũng như làm mất bản sắc riêng của ASEAN đối với các đối tác bên ngoài ASEAN.

Bốn là, việc thay đổi hay điều chỉnh các nguyên tắc hoạt động của ASEAN, trong đó có nguyên tắc đồng thuận, có thể làm riêng rẽ, nhưng bắt buộc phải lồng ghép vào tiến trình cập nhật và bổ sung nội dung của Hiến chương ASEAN. Vì vậy, việc cập nhật Hiến chương ASEAN, nhất là bổ sung thêm cơ chế ra quyết định không cần sự đồng thuận sẽ là một tiến trình lâu dài, khó khả thi.

Có thể thấy, nguyên tắc đồng thuận là một trong những giá trị cốt lõi của ASEAN, đã trở thành một phần quan trọng trong bản sắc của ASEAN. Để ASEAN tiếp tục khẳng định vai trò trung tâm trong một thế giới đầy biến động, một số học giả trong ASEAN đã đưa ra đề xuất.

Thứ nhất, ASEAN cần tiếp tục vận dụng nguyên tắc đồng thuận với sự linh hoạt cao hơn theo công thức “ASEAN-X” hay “2+X” nhưng trên cơ sở đồng thuận trước khi thực hiện và phải thống nhất các lĩnh vực, giới hạn rõ hơn các vấn đề được thực hiện theo công thức linh hoạt này.

Thứ hai, không nhất thiết phải thay đổi nguyên tắc đồng thuận, song ASEAN cần xem xét thiết lập các cơ chế bổ sung để cho phép một mức độ linh hoạt nhất định đối với nguyên tắc này, trước hết là trong những vấn đề ít “nhạy cảm”.

Thứ ba, ASEAN có thể quy định một danh mục cụ thể các vấn đề “nhạy cảm”, bắt buộc phải có đồng thuận và một danh mục các vấn đề ít “nhạy cảm”, không nhất thiết phải có đồng thuận.

Thứ tư, ASEAN cần sớm trao đổi thẳng thắn, xử lý hài hòa mối quan hệ giữa lợi ích quốc gia và trách nhiệm quốc tế của các nước thành viên, giữa lợi ích quốc gia và lợi ích của khu vực, trong từng vấn đề, làm rõ đâu là giới hạn các nước thành viên có trách nhiệm bắt buộc phải đồng thuận và ở mức độ nào không cần đồng thuận.

Nhìn lại gần 55 năm phát triển của ASEAN, có thể thấy rõ mặt tích cực của phương cách ASEAN và các nguyên tắc hoạt động cơ bản của ASEAN, cũng như nguyên tắc đồng thuận đã giúp ASEAN bảo đảm được sự đoàn kết nội Khối trước các vấn đề then chốt, có tính sống còn của Hiệp hội, bảo đảm sự bình đẳng cả về quyền lợi và trách nhiệm, bảo đảm tất cả các nước thành viên đều cảm thấy được tham vấn và thoải mái trong các quá trình ra quyết sách trên tinh thần “không bỏ lại bất kỳ ai”. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là trong bối cảnh tình hình nhiều thay đổi, ASEAN cần có những điều chỉnh cho phù hợp, để bảo đảm sự linh hoạt, sức sống và khả năng thích nghi, năng lực ứng phó của ASEAN trước những thách thức và vận hội mới. Sự kết hợp giữa các nguyên tắc linh hoạt, các cơ chế bổ sung với các nguyên tắc cơ bản đã có, trong đó có nguyên tắc đồng thuận, xác định rõ mức độ tin cậy, trao đổi thẳng thắn các vấn đề nhạy cảm, trên các nền tảng đã được xây dựng trong gần 55 năm qua, là hướng đi thích hợp nhất, để có thể duy trì một ASEAN đoàn kết, thống nhất trong đa dạng, nâng cao được hiệu quả hợp tác và thực sự giúp ASEAN tiếp tục giữ vững vai trò trung tâm trong các tiến trình hợp tác và xây dựng các thể chế ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương./.

Đại sứ, Tiến sĩ Luận Thùy Dương - Học viện Ngoại giao

------------------------

(1) Điều 21, Chương VII “Thực hiện và Thủ tục”, Hiến chương ASEAN