26/11/2024 lúc 19:48 (GMT+7)
Breaking News

Nâng cao hiệu quả hoạt động nghiên cứu thực tế của các lớp dự nguồn cán bộ cao cấp

VNHNO - Hoạt động nghiên cứu thực tế của 6 lớp bồi dưỡng dự nguồn cán bộ cao cấp đạt nhiều kết quả đáng ghi nhận: từ mục tiêu, nhiệm vụ, nội dung, địa bàn, thời gian cho đến công tác tổ chức thực hiện.

VNHNO - Hoạt động nghiên cứu thực tế của 6 lớp bồi dưỡng dự nguồn cán bộ cao cấp đạt nhiều kết quả đáng ghi nhận: từ mục tiêu, nhiệm vụ, nội dung, địa bàn, thời gian cho đến công tác tổ chức thực hiện.

Ảnh minh hoạ

Nhờ vậy, học viên tiếp thu được nhiều kiến thức bổ ích; đề xuất những kiến nghị thiết thực đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương. Để hoạt động nghiên cứu thực tế của các lớp bồi dưỡng dự nguồn cán bộ cao cấp sắp tới đạt hiệu quả cao hơn, cần: đa dạng hóa địa bàn nghiên cứu thực tế; xây dựng kế hoạch, phân công nhiệm vụ rõ ràng, khoa học; tăng cường kỷ cương, kỷ luật trong nghiên cứu thực tế; đổi mới phương thức đánh giá kết quả nghiên cứu thực tế... 

Thực hiện chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư Trung ương Đảng về đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ dự nguồn chiến lược cho khóa XII, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh đã phối hợp với Ban Tổ chức Trung ương và các ban, bộ ngành Trung ương, các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tổ chức 6 lớp bồi dưỡng nguồn cán bộ cao cấp (từ 27/3/2013 đến 2/7/2015).

Học viên là cán bộ chủ chốt và diện quy hoạch dự nguồn cán bộ chủ chốt cấp chiến lược của các cơ quan Trung ương và các tỉnh, thành phố trong cả nước; bao gồm các đồng chí là Ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương (khoá XI); cán bộ quy hoạch Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương khóa XII; cán bộ quy hoạch lãnh đạo chủ chốt các bộ, ban, ngành, đoàn thể ở Trung ương và ở các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, giai đoạn 2015-2020.

Chương trình học tập gồm 6 học phần và nghiên cứu thực tế, trong đó: 5 học phần cơ bản, gồm: Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh (6 chuyên đề); Những vấn đề thế giới đương đại (5 chuyên đề); Đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam (10 chuyên đề); Xây dựng Đảng và Nhà nước (7 chuyên đề); Khoa học lãnh đạo và quản lý (5 chuyên đề);học phần các chuyên đề bổ trợ, gồm 10 báo cáo của các chuyên gia trong và ngoài nước; chương trình nghiên cứu thực tế gồm 2 tuần.

1. Những kết quả đạt được

- Về mục đích nghiên cứu thực tế

Hoạt động nghiên cứu thực tế của học viên các lớp bồi dưỡng dự nguồn cán bộ cao cấp nhằm:

- Đáp ứng phương châm quan trọng hàng đầu của nghiên cứu, giảng dạy, học tập lý luận chính trị là: lý luận liên hệ với thực tiễn; lý thuyết gắn với thực hành.

- Nhận thức rõ ràng và đầy đủ hơn các vấn đề trong các học phần lý thuyết, những nội dung trong các báo cáo bổ trợ.

- Có điều kiện đối chứng thực tiễn của địa phương, ngành... với các lĩnh vực công tác của học viên.

- Nắm bắt được những mô hình phát triển, rút ra những bài học kinh nghiệm để vận dụng sáng tạo vào công tác lãnh đạo cấp chiến lược.

- Có điều kiện hiểu biết rõ hơn hiện thực cuộc sống, cảm thông, chia sẻ hơn với người dân; từ đó rèn luyện ý thức trách nhiệm, thái độ đúng đắn trong giao tiếp và ứng xử đối với người dân.

Kết quả nghiên cứu thực tế của học viên 6 lớp bồi dưỡng dự nguồn cán bộ cao cấp cho thấy: các mục đích nêu trên là hoàn toàn sát hợp và được thực hiện tốt. Sau khi đi nghiên cứu thực tế, học viên đều có những thay đổi tích cực về nhận thức; tiếp thu thêm nhiều kiến thức bổ ích; đặc biệt, gần gũi, cảm thông, chia sẻ với nhân dân hơn. Điều này sẽ ảnh hưởng tích cực tới việc tham gia vào công tác chỉ đạo chiến lược ở tầm vĩ mô sau này.

- Về nhiệm vụ nghiên cứu thực tế

Để đạt được các mục đích trên, học viên 6 lớp bồi dưỡng dự nguồn cán bộ cao cấp phải thực hiện các nhiệm vụ cụ thể sau đây:

- Nghiên cứu tình hình kinh tế - xã hội của địa phương (đặc biệt là ở cấp xã).

- Nghiên cứu tình hình và phân tích, đánh giá việc thực hiện chủ trương, chính sách về vấn đề nghiên cứu thực tế từ tỉnh đến xã.

- Khảo sát một số cơ quan, đơn vị điển hình trong việc thực hiện chủ trương, chính sách về vấn đề nghiên cứu thực tế.

- Khảo sát, nắm bắt tình hình tư tưởng, tâm tư nguyện vọng của nhân dân địa phương và quan điểm, thái độ của người dân trong quá trình thực hiện các chủ trương và chính sách của Đảng và Nhà nước.

- Tham gia lao động, sản xuất trực tiếp cùng với nhân dân địa phương.

- Viết báo cáo thu hoạch về vấn đề nghiên cứu; đề xuất các kiến nghị, giải pháp để giải quyết những khó khăn và các vấn đề đang đặt ra tại địa phương đến thực tế.

Tất cả các nhiệm vụ nói trên đều được các đoàn nghiên cứu thực tế thực hiện nghiêm túc và đạt được những kết quả tích cực. Các báo cáo thu hoạch được chuẩn bị công phu, với những đánh giá toàn diện và chính xác về tình hình địa phương, nêu được những vấn đề bức thiết đang đặt ra, đề xuất những kiến nghị có giá trị tham khảo thiết thực để giải quyết những vấn đề đó. Tất cả các nhóm nghiên cứu thực tế đều tham gia lao động sản xuất cùng nhân dân, với nhiều hình thức như: làm đường; vệ sinh môi trường; thu hoạch nông sản... Ân cần thăm hỏi, lắng nghe tâm tư, nguyện vọng của bà con.

- Về địa bàn nghiên cứu thực tế

6 lớp bồi dưỡng dự nguồn cán bộ cao cấp đi nghiên cứu thực tế tại 54 xã vùng sâu, vùng xa (nhiều xã biên giới, hải đảo) có nhiều khó khăn về kinh tế - xã hội, thuộc 27 tỉnh nằm ở cả 3 khu vực Bắc Bộ, Trung Bộ và Nam Bộ, gồm: Hà Giang, Lai Châu, Sơn La, Cao Bằng, Điện Biên, Lạng Sơn, Quảng Ninh, Lào Cai, Yên Bái, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Bắc Kạn, Phú Thọ,Thanh Hóa, Quảng Nam, Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận, Bình Phước, Bến Tre, Cà Mau.

Địa bàn như vậy vừa có tầm bao quát lại vừa có tính điển hình, đáp ứng cả về chiều rộng lẫn chiều sâu các nội dung nghiên cứu, do vậy, sát hợp với mục đích, nhiệm vụ của hoạt động nghiên cứu thực tế.

- Về nội dung nghiên cứu thực tế

Trong 2 ngày đầu của đợt nghiên cứu thực tế, các nhóm nghe báo cáo tổng quan về tình hình kinh tế - xã hội, an ninh - quốc phòng của tỉnh và huyện; khảo sát một số cơ quan kinh tế, khoa học - kỹ thuật, giáo dục - đào tạo, văn hóa của tỉnh và huyện.

Trong 7 ngày kế tiếp, các nhóm nghiên cứu: tình hình kinh tế - xã hội; công tác xây dựng tổ chức cơ sở Đảng và phát triển đảng viên; hoạt động của chính quyền, của các tổ chức chính trị-xã hội trên địa bàn xã; trong đó đặc biệt chú ý vấn đề xây dựng nông thôn mới; công tác xóa đói giảm nghèo và các vấn đề bức thiết mang tính đặc thù của địa phương cần sớm được giải quyết.

Trong 2 ngày cuối của đợt nghiên cứu thực tế, các nhóm báo cáo kết quả nghiên cứu tại huyện và tỉnh.

Nội dung và lộ trình thực hiện như vậy là khoa học, giúp học viên bám sát địa bàn nghiên cứu ở 3 cấp: tỉnh, huyện, xã theo một chu trình chặt chẽ; đồng thời, được kiểm chứng, đánh giá kết quả nghiên cứu trong điều kiện thuận lợi nhất.

- Về thời gian nghiên cứu thực tế

Thời gian đi thực tế là 2 tuần. Thời gian làm việc là 11 ngày. Trong đó: 2 ngày làm việc với tỉnh, 2 ngày làm việc với huyện, 7 ngày làm việc với xã và ở tại nhà dân hoặc địa điểm khác tùy điều kiện cụ thể.

Trong thời gian làm việc tại xã, đoàn có ít nhất 2 ngày trực tiếp lao động, sản xuất cùng với nhân dân.

Thời gian nghiên cứu thực tế như vậy là phù hợp so với chương trình chung của khóa học kéo dài 4 tháng. Sự phân bố thời gian ở tỉnh, huyện, xã cũng bám sát mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu. Phần lớn các nhóm học viên đều bảo đảm đúng thời gian nghiên cứu thực tế, tận dụng tối đa thời gian để hoàn thành các nhiệm vụ đặt ra.

- Về tổ chức thực hiện

3 lớp đầu (từ lớp thứ nhất đến lớp thứ ba), mỗi lớp chia thành 4 đoàn, đi nghiên cứu thực tế tại 4 tỉnh; 3 lớp sau (từ lớp thứ tư đến lớp thứ sáu), mỗi lớp chia thành 5 đoàn, đi nghiên cứu thực tế tại 5 tỉnh; ở mỗi tỉnh nghiên cứu tại 2 huyện và 2 xã khác nhau.

Đối với 3 lớp đầu, mỗi lớp chia thành 8 nhóm; đối với 3 lớp sau, mỗi lớp chia thành 10 nhóm, mỗi nhóm nghiên cứu thực tế gồm 9-10 học viên. Việc chia nhóm được thực hiện theo nguyên tắc bảo đảm về cơ cấu: Trung ương/địa phương; vùng/miền; nam/nữ; chuyên môn, nghiệp vụ. Trong quá trình nghiên cứu thực tế, học viên thực hiện chế độ tự quản. Mỗi đoàn có Trưởng đoàn, mỗi nhóm có Trưởng nhóm để điều hành công việc chung. Học viên tự xây dựng chương trình, kế hoạch làm việc trong toàn bộ đợt đi thực tế; tự tổ chức việc sinh hoạt (ăn ở, đi lại, v.v.) của mình tại địa bàn xã.

Mỗi nhóm học viên có 1 cán bộ của Học viện đi cùng. Đó là những cán bộ cấp vụ, có trình độ chuyên môn tốt, có kỹ năng giao tiếp. Cán bộ Học viện tham gia các chuyến đi thực tế của học viên có trách nhiệm theo dõi tinh thần, thái độ và kết quả làm việc của học viên và thường xuyên báo cáo tình hình về Ban Tổ chức lớp học.    

Trước khi học viên đi nghiên cứu thực tế, Giám đốc Học viện chủ trì cuộc họp với sự tham dự của toàn thể học viên của lớp và các đối tượng có liên quan khác để chỉ đạo việc tổ chức kế hoạch nghiên cứu thực tế; trao đổi, giải đáp các nội dung học viên quan tâm.

Chương trình nghiên cứu thực tế như trên đã phát huy tốt hiệu quả. Các nhóm gồm 9-10 học viên đi nghiên cứu tại 1 xã sẽ tạo thuận lợi cho việc nghiên cứu, thảo luận; bố trí ăn ở, đi lại.

Các nhóm đã chủ động xây dựng và thực hiện kế hoạch khảo sát, nghiên cứu; có ý thức kỷ luật cao, tạo lập và giữ gìn quan hệ tốt đẹp với nhân dân địa phương.

Các cán bộ Học viện đi cùng các nhóm đã nêu cao tinh thần trách nhiệm, vừa giám sát, hỗ trợ, lại vừa trực tiếp tham gia các hoạt động nghiên cứu của nhóm, thực sự là cầu nối quan trọng giữa các nhóm và Ban Tổ chức lớp học.

- Về sự phối hợp giữa Học viện Chính trị quốc gia và các tỉnh, thành phố là địa bàn nghiên cứu thực tế

Trước khi học viên đi nghiên cứu thực tế khoảng 2 tháng, Học viện gửi Công văn đến các tỉnh liên quan thông báo về nội dung chương trình nghiên cứu thực  tế. Tiếp đó, đoàn cán bộ Học viện đến làm việc trực tiếp với Tỉnh ủy các tỉnh liên quan để thống nhất kế hoạch phối hợp tổ chức nghiên cứu thực tế cho học viên.

Trong quá trình diễn ra hoạt động nghiên cứu thực tế, Giám đốc Học viện, Chủ nhiệm lớp tổ chức đi kiểm tra tình hình, nhất là ở các địa bàn khó khăn.

Tất cả 27 tỉnh có học viên tới nghiên cứu thực tế đều hợp tác chặt chẽ và hiệu quả với Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh: đón tiếp các đoàn tận tình, chu đáo; tạo các điều kiện thuận lợi và hỗ trợ về mọi mặt để các nhóm nghiên cứu hoàn thành tốt mục tiêu, nhiệm vụ đặt ra. 

Có những tỉnh, đồng chí Bí thư Tỉnh ủy trực tiếp xuống địa bàn xã để kiểm tra và chỉ đạo chuẩn bị các điều kiện nghiên cứu thực tế cho học viên.

Mỗi tỉnh đều cử ra một đồng chí cán bộ lãnh đạo cấp sở, ban, ngành làm đầu mối liên lạc để trao đổi các thông tin liên quan với Học viện; bố trí phương tiện đi lại, nơi ăn ở bảo đảm an toàn, thuận lợi cho học viên. Mỗi nhóm nghiên cứu đều có 1 cán bộ địa phương, thông thạo địa bàn, giàu kinh nghiệm thực tiễn đi cùng để hỗ trợ.

Các tỉnh đều tích cực tham gia đóng góp vào nội dung nghiên cứu thực tế của học viên. Nhờ đó, các báo cáo thu hoạch nhìn chung có chất lượng tốt, bám sát tình hình thực tiễn địa phương và đề xuất những kiến nghị thiết thực.

Các đợt nghiên cứu thực tế đã giúp củng cố và tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa các tỉnh học viên tới nghiên cứu và Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh; đồng thời mở ra nhiều mối quan hệ hợp tác tốt đẹp giữa các tỉnh nói trên và các tỉnh, thành phố, bộ, ban, ngành cử học viên đi học.

Sau khi các khóa học kết thúc, Học viện đã gửi phiếu thăm dò ý kiến của 350 đồng chí học viên về Chương trình bồi dưỡng dự nguồn cán bộ cao cấp. Kết quả đánh giá của học viên hoạt động nghiên cứu thực tế như sau:

Với kết quả thu được, có thể khẳng định hoạt động nghiên cứu thực tế của học viên các lớp bồi dưỡng dự nguồn cán bộ cao cấp đã được tổ chức thành công.

Bên cạnh những kết quả đạt được, vẫn còn một số hạn chế, bất cập, đó là:

Phạm vi nghiên cứu thực tế còn tương đối hẹp cho nên nội dung nghiên cứu chưa phong phú, toàn diện, chưa khai thác hết tiềm năng của học viên là cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt của nhiều lĩnh vực khác nhau.

Việc phân chia các nhóm nghiên cứu thực tế có lúc chưa hợp lý: Học viên cùng một lĩnh vực chuyên môn, nghiệp vụ tập trung vào một nhóm, trong khi vấn đề nghiên cứu là vấn đề tổng hợp, để tiếp cận và giải quyết hiệu quả cần kết hợp  nhiều lĩnh vực chuyên môn khác nhau.

Kỷ cương, kỷ luật trong nghiên cứu thực tế có lúc còn chưa được thực hiện nghiêm túc. Có nhóm kết thúc đợt nghiên cứu thực tế sớm hơn so với thời gian quy định. Có học viên về cơ quan giải quyết công việc trong thời gian nghiên cứu thực tế.

Việc đánh giá kết quả nghiên cứu thực tế theo nhóm chưa phát huy được ở mức cao nhất năng lực và trách nhiệm của mỗi học viên.

2. Một số kiến nghị

Thứ nhất, đa dạng hóa địa bàn nghiên cứu thực tế.

Các lớp bồi dưỡng dự nguồn cán bộ cao cấp khóa XII nghiên cứu thực tế tại địa bàn cấp xã, ở vùng sâu, vùng xa, khó khăn về mọi mặt. Với các lớp tổ chức sau này có thể khảo sát ở cấp tỉnh, hoặc ở các phạm vi, lĩnh vực khác như đặc khu kinh tế, khu công nghiệp, đơn vị lực lượng vũ trang, v.v.. Khách thể nghiên cứu không nhất thiết chỉ là nơi khó khăn, là điểm nóng về chính trị-xã hội, mà còn là nơi có đời sống kinh tế-xã hội phát triển, có thể trở thành mô hình cho nơi khác học tập, chia sẻ kinh nghiệm và làm theo.

Thứ hai, xây dựng kế hoạch sớm, bảo đảm tính khoa học, cụ thể, chi tiết; phân công nhiệm vụ rõ ràng, chính xác.

Học viên cần được trực tiếp tham gia vào xây dựng nội dung nghiên cứu thực tế để việc tổ chức triển khai sát hợp và hiệu quả.

Trước khi học viên đi nghiên cứu thực tế, cần có một buổi hướng dẫn về kỹ năng nghiên cứu và quy cách thực hiện Báo cáo cáo thu hoạch. Nên giới thiệu một báo cáo mẫu cho học viên tham khảo. Thực tế cho thấy, nhiều nhóm nghiên cứu có mô hình báo cáo tương tự nhau, nội dung dàn trải, chưa đi sâu vào những vấn đề trọng tâm của địa phương.

Thứ ba, tăng cường kỷ cương, kỷ luật trong nghiên cứu thực tế.

Học viện cần phối hợp chặt chẽ với cơ quan, đơn vị liên quan để tổ chức kiểm tra, giám sát chặt chẽ việc thực hiện nội dung chương trình nghiên cứu thực tế. Kế hoạch thực tế phải được thực hiện theo đúng thời gian quy định. Học viên không được rời khỏi địa bàn nghiên cứu thực tế nếu không có sự cho phép của Ban Chỉ đạo lớp học. Những trường hợp vi phạm kỷ luật, cần có chế tài xử lý thỏa đáng.

Thứ tư, đổi mới phương thức đánh giá kết quả nghiên cứu thực tế.

Kết quả nghiên cứu thực tế nên đánh giá theo từng học viên, không nên đánh giá theo nhóm. Như vậy, mỗi học viên phải có một báo cáo kết quả nghiên cứu thực tế của riêng mình. Báo cáo đó có thể được trình bày trước Hội đồng đánh giá (hình thức bảo vệ) hoặc được chấm 2 vòng độc lập (hình thức chấm). Trong số các thành viên của Ban đánh giá kết quả nghiên cứu thực tế, nên có đại diện lãnh đạo của cơ quan, đơn vị là nơi học viên đến nghiên cứu thực tế.

Thứ năm, kết quả nghiên cứu thực tế của học viên cần được xem xét, sử dụng một cách hiệu quả.

Trước hết, các bản kiến nghị của học viên với tư cách là sản phẩm của đợt nghiên cứu thực tế nên được các cơ quan, đơn vị liên quan (cả Trung ương và địa phương) nghiên cứu kỹ; tiếp thu và tổ chức thực hiện nghiêm túc đối với những nội dung phù hợp. Thực tế cho thấy, không ít những kiến nghị như vậy rất có giá trị đối với sự phát triển về mọi mặt của địa phương.

Bên cạnh đó, kết quả nghiên cứu thực tế của các lớp bồi dưỡng dự nguồn cán bộ cao cấp là tài liệu thiết thực, bổ ích, phục vụ trực tiếp cho hoạt động đào tạo, bồi dưỡng của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Vì thế, cần tiến hành phân loại một cách khoa học và lưu trữ cẩn trọng; đồng thời tạo điều kiện để cán bộ nghiên cứu, giảng dạy, học viên, sinh viên tiếp cận, khai thác và sử dụng.

Sắp tới, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh tiếp tục được giao nhiệm vụ tổ chức các lớp bồi dưỡng dự nguồn cán bộ cao cấp, chuẩn bị nhân sự cho khóa XIII và các khóa tiếp theo. Việc đánh giá khách quan và toàn diện hoạt động nghiên cứu thực tế của các lớp bồi dưỡng dự nguồn cán bộ cao cấp vừa qua là căn cứ quan trọng để Học viện có những điều chỉnh, bổ sung cần thiết, tổ chức hiệu quả hơn các lớp sau./.

PGS. TS. Hoàng Anh (Vụ Quản lý đào tạo, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh)