Khi nhắc đến “khoảng cách số” giữa thành thị và nông thôn, phần lớn mọi người thường hình dung đến sự thiếu thốn về thiết bị điện tử hay hạ tầng kết nối internet. Nhưng thực tế tại nhiều vùng quê lại cho thấy một bức tranh phức tạp hơn: khoảng cách ấy không chỉ nằm ở máy tính, điện thoại hay đường truyền mạng, mà còn là sự thiếu hụt kỹ năng sử dụng công nghệ, nội dung số chưa phù hợp với nhu cầu thực tế, và đặc biệt là tư duy tiếp cận còn dè dặt, thậm chí e ngại với cái mới. Chính sự kết hợp của những yếu tố hữu hình và vô hình ấy đang khiến một bộ phận không nhỏ người dân nông thôn dần bị tụt lại phía sau trên hành trình chuyển đổi số.

Khoảng cách số ở nông thôn: Thách thức từ hạ tầng đến tri thức số. Ảnh: TL
Theo báo cáo mới nhất của Bộ Thông tin và Truyền thông (tháng 6/2025), tỷ lệ hộ gia đình có kết nối Internet ở khu vực nông thôn đạt khoảng 81% và chỉ có khoảng 45% người dân sử dụng Internet cho các mục đích thiết thực như học tập, sản xuất, hay làm việc từ xa. Điều này phản ánh rõ ràng sự lệch pha giữa “có kết nối” và “biết khai thác”. Khoảng cách số không chỉ thể hiện ở thiết bị hay hạ tầng, mà còn nằm sâu trong kỹ năng và thói quen sử dụng công nghệ. Chỉ khoảng 27% người dân nông thôn có khả năng sử dụng thành thạo các dịch vụ công trực tuyến, con số cho thấy họ đang gặp trở ngại lớn khi chính phủ thúc đẩy chuyển đổi số trong hành chính công. Có sự mất cân bằng đáng kể về kỹ năng số giữa thanh niên đô thị và nông thôn, đặc biệt nghiêm trọng ở nhóm nữ giới và người dân tộc thiểu số những đối tượng vốn đã gặp nhiều rào cản trong việc tiếp cận giáo dục và công nghệ. Tại Sơn La, đặc biệt là vùng cao, khoảng 30% hộ dân vẫn chưa có thiết bị thông minh phục vụ cho học tập hay sản xuất. Ở Đồng Tháp vẫn đang tích cực số hóa dịch vụ công nhưng người dân vẫn gặp khó khăn trong việc truy cập và sử dụng cổng dịch vụ công trực tuyến do thiếu hướng dẫn và đào tạo cơ bản. Còn tại Quảng Bình, dù các hợp tác xã nông nghiệp đã được hỗ trợ đưa sản phẩm lên sàn thương mại điện tử, vẫn còn phần lớn vẫn lúng túng, thậm chí không biết bắt đầu từ đâu vì thiếu kiến thức về công nghệ, tiếp thị số và quản lý đơn hàng. Những dữ liệu và thực tiễn trên cho thấy: khoảng cách số không chỉ là vấn đề kỹ thuật, mà là khoảng trống về nhận thức, năng lực và sự đồng hành. Nếu không được lấp đầy, khoảng trống ấy sẽ ngày càng nới rộng, khiến nông thôn bị chậm chân trong hành trình phát triển số của cả nước.
Nhiều người dân ở vùng nông thôn vẫn sở hữu điện thoại thông minh hoặc có kết nối Internet, nhưng họ lại gặp khó khăn trong việc sử dụng thiết bị một cách hiệu quả. Tình trạng phổ biến là người dân chỉ dùng điện thoại để nghe và gọi, mà không biết đến các tính năng thiết yếu khác như tìm kiếm thông tin, học tập trực tuyến hay bảo vệ tài khoản cá nhân. Có tới 60% người dùng Internet tại nông thôn không biết cách bảo mật thông tin cá nhân, phản ánh lỗ hổng lớn trong nhận thức về an toàn mạng. Nhiều nền tảng, ứng dụng về giáo dục, nông nghiệp hay y tế vẫn sử dụng ngôn ngữ phức tạp, mang tính kỹ thuật cao, gây khó hiểu cho người dân. Những tiến bộ trong nông nghiệp số, như ứng dụng cảm biến, bản đồ số, phân tích dữ liệu, cũng hiếm khi tiếp cận được tới cấp thôn, ấp. Bên cạnh đó, một rào cản đáng kể đến từ chính tâm lý của người dân nhất là người cao tuổi. Nhiều người tỏ ra e dè, sợ làm hỏng thiết bị, hoặc lo bị lừa đảo khi lên mạng. Không ít trường hợp từ chối học cách sử dụng công nghệ chỉ vì nghĩ “mình đã già”, hay phụ thuộc vào con cháu làm thay. Nguồn nhân lực hỗ trợ công nghệ tại chỗ còn thiếu và yếu. Nhiều xã chưa có cán bộ chuyên trách về công nghệ thông tin, trong khi các tổ công nghệ số cộng đồng – được kỳ vọng là cánh tay nối dài của chính quyền trong phổ cập kỹ năng số lại hoạt động hình thức, thiếu chuyên môn hoặc nhiệt huyết. Khi người dân cần hỗ trợ tiếp cận dịch vụ công trực tuyến hay học cách bán hàng trên sàn thương mại điện tử, họ không biết hỏi ai, nhờ ai. Tất cả những yếu tố này đã tạo nên một “rào cản đa tầng” về kỹ năng, nội dung và cả tâm lý. Khoảng cách số ở nông thôn vì thế không thể giải quyết chỉ bằng việc phủ sóng Internet, mà cần một cách tiếp cận toàn diện, sâu sát và thực chất hơn.
Để thu hẹp khoảng cách số giữa thành thị và nông việc phổ cập kỹ năng số cơ bản cho người dân nông thôn cần được đặt lên hàng đầu. Những lớp học cộng đồng nên được tổ chức linh hoạt tại các thôn, bản, hướng tới nhóm đối tượng cụ thể như nông dân, phụ nữ và người cao tuổi. Những chương trình như Đề án 06 của Chính phủ cần tiếp tục được mở rộng, phát triển thành các mô hình “xóa mù số” thực chất, với cách giảng dạy đơn giản, trực quan. Tại Thái Nguyên, hơn 200 tổ công nghệ số cộng đồng đã được triển khai, tổ chức đào tạo kỹ năng số cho hơn 50.000 người dân trong năm 2024 – một minh chứng rõ nét cho hiệu quả khi địa phương vào cuộc mạnh mẽ. Bên cạnh kỹ năng, nội dung số cũng là yếu tố then chốt giúp người dân thực sự nhìn thấy lợi ích của công nghệ trong đời sống hằng ngày. Những thư viện số chuyên biệt dành cho nông dân, ngư dân hay tiểu thương cần được đầu tư phát triển với ngôn ngữ giản dị, dễ hiểu, sát với nhu cầu thực tế như kỹ thuật nuôi trồng, phòng trị bệnh cây trồng, hướng dẫn làm hồ sơ vay vốn, bảo hiểm... Việc dịch thuật các nội dung chính sách, công nghệ ra ngôn ngữ dân tộc thiểu số cũng là bước đi cần thiết để tạo sự bình đẳng trong tiếp cận thông tin, đặc biệt ở những vùng sâu, vùng xa. Nhiều hộ gia đình nghèo và học sinh khó khăn vẫn chưa có điều kiện sở hữu điện thoại thông minh hay máy tính bảng để phục vụ học tập và sử dụng dịch vụ công. Do đó, cần có chính sách hỗ trợ tài chính, cấp phát hoặc cho mượn thiết bị theo mô hình “thư viện thiết bị công cộng”. Những điểm truy cập này, nếu được quản lý tốt, sẽ trở thành nơi người dân có thể sử dụng công nghệ một cách an toàn và hiệu quả. Vai trò của đội ngũ tổ công nghệ số cộng đồng và cán bộ cơ sở phải được phát huy mạnh mẽ hơn. Họ chính là “cầu nối” giữa công nghệ và người dân, là lực lượng hướng dẫn, kèm cặp tận nơi cho từng trường hợp cụ thể. Để thúc đẩy chuyển đổi số ở cấp cơ sở, cần đưa tiêu chí sử dụng thành thạo dịch vụ công trực tuyến vào hệ thống đánh giá xã nông thôn mới nâng cao. Chỉ khi người dân thật sự làm chủ công nghệ, không còn e ngại hay thụ động, chuyển đổi số mới thực sự trở thành cuộc cách mạng toàn dân.
Khoảng cách số không đơn thuần là sự thiếu vắng hạ tầng, mà là khoảng cách về cơ hội, tri thức và tương lai. Nếu chuyển đổi số là hành trình của cả quốc gia, thì nông thôn phải là nơi bắt đầu. Bởi chỉ khi người dân nông thôn được “xóa mù công nghệ”, biết khai thác các dịch vụ số trong đời sống hàng ngày, thì mới có thể xây dựng một xã hội số công bằng, toàn diện và phát triển bền vững.
ThS Phương Huyền Châu



