1. Nghiên cứu lịch sử Nhà nước và pháp luật cho thấy Nhà nước pháp quyền có lịch sử phát triển lâu đời ở cả phương Đông và phương Tây. Ở phương đông, cội rễ của tư tưởng pháp quyền đã manh nha bởi trường phái pháp gia xuất hiện ở Trung Quốc từ cuối thời Xuân Thu (tư tưởng của Phạm Lãi, Quản Trọng, Tử Sản), sang thời Chiến Quốc (các tư tưởng gia như Thân Bất Hại, Thận Đáo, Thương Ưởng và đặc biệt là Hàn Phi Tử) phát triển rất mạnh, là nhân tố quan trọng giúp cho nhà Tần thống nhất Trung Quốc từ các nước chư hầu. Trên cơ sở tổng hợp tư tưởng của các pháp gia trước đó, đặc biệt là các nhà tư tưởng thời Chiến Quốc, Hàn Phi Tử (khoảng 280-233 TCN) đã viết nên bộ sách để đời mang tên chính ông “Hàn Phi Tử”[1]. Trái ngược với thuyết Nho gia của Khổng Tử quan niệm “Nhân tri sơ tính bản thiện”, Hàn Phi Tử cho rằng “Nhân tri sơ tính bản ác”, do đó không thể trông mong vào việc cảm hóa người dân hướng thiện bằng những tấm gương đạo đức của nhà cầm quyền để có thể duy trì được trật tự xã hội, trái lại cần dùng sức mạnh của pháp luật để bắt người ta phải tuân theo (“Tính người ta có ưa có ghét – ưa tư lợi, ưa được khen, ghét bị cực khổ, bị hình phạt, cho nên có thể dùng hình phạt để dắt dẫn, ngăn cấm họ. Đạo trị nước chỉ có vậy thôi”). Ông cho rằng pháp luật phải như cái quy (cái thước tròn), cái củ (cái thước vuông), nói cách khác chính là tiêu chuẩn để đo lường hành vi của con người. Pháp luật không phải là sự tùy tiện, mà phải có tính khách quan, tính phổ biến, tính minh bạch, rõ ràng, dễ hiểu, thống nhất, công bằng và có hiệu lực thi hành được đảm bảo (dựa vào “thế” - chính là quyền lực nhà nước nằm trong tay nhà vua).
Ở phương Tây, Nhà nước pháp quyền dù đã manh nha từ các nhà tư tưởng Hy Lạp như Socrate (469-399 TCN), Plato (428-347 TCN), Aristote (201-120 TCN), tuy nhiên phải đến thời cận đại mới được thể hiện một cách rõ nét, chủ yếu thông qua hai nhà tư tưởng John Locke (1632-1704) và Montesquieu (1689-1755). John Locke là nhà tư tưởng người Anh có thể xem là người khởi xướng cho học thuyết phân tách quyền lực. Ông cho rằng nên phân tách giữa quyền lập pháp và quyền hành pháp “Quyền lực chỉ có thể vì lợi ích chung nếu người làm luật không được thi hành chúng và người thi hành chúng không được làm ra chúng”[2]. Montesquieu là nhà tư tưởng người Pháp đã phát triển học thuyết phân tách quyền lực của John Locke thành thuyết phân quyền (“Séparation de pouvoirs”). Ông cho rằng trong mỗi quốc gia đều có ba thứ quyền lực: quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp. Ba quyền này phải tách bạch với nhau để tránh sự lạm quyền. “Khi mà quyền lập pháp và quyền hành pháp nhập lại trong tay một người hay một Viện nguyên lão thì không còn tự do nữa, vì người ta sợ rằng chính ông ta hay Viện ấy sẽ đặt ra những luật độc tài để thi hành một cách độc tài. Cũng không có gì là tự do nếu quyền tư pháp không tách khỏi quyền lập pháp và quyền hành pháp. Nếu quyền tư pháp nhập lại với quyền hành pháp, thì người ta sẽ độc đoán với quyền sống và quyền tự do của công dân; quan tòa sẽ là người đặt ra luật. Nếu quyền tư pháp nhập lại với quyền hành pháp, thì ông quan tòa sẽ có cả sức mạnh của kẻ đàn áp”[3].
2. Mô hình Nhà nước pháp quyền mà Việt Nam đang xây dựng và hoàn thiện là “Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN)” dựa trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, Mác và Ăngghen cho rằng “pháp quyền của các ông là ý chí của giai cấp các ông được đề lên thành luật pháp, cái ý chí mà nội dung là do những điều kiện sinh hoạt vật chất của giai cấp các ông quyết định”.[4] Chỉ khi nào luật hợp với lòng dân mới được thi hành trong xã hội và chỉ như vậy luật mới ràng buộc được Nhà nước. Luật phải phản ánh được những quy luật khách quan, tự nhiên, vốn có của xã hội loài người nên mới có hiệu lực ràng buộc Nhà nước. Nhà nước tuân thủ luật pháp đấy là một nhà nước được hợp lý hóa. Một nhà nước được hợp lý hóa gắn liền với sự phát triển lý tính của con người. “Ở một dân tộc mà không có lý tính thì nói chung không thể nói đến một tổ chức nhà nước hợp lý tính. Hơn nữa ở đây, trong triết học pháp quyền, chúng ta đề cập đến ý chí loài”[5].
Vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam, gắn với nhu cầu quan trọng đầu và trước tiên là đấu tranh giải phóng dân tộc, giành độc lập từ ách thống trị của thực dân Pháp, ngay từ năm 1919, người thanh niên yêu nước Nguyễn Ái Quốc đã sớm nhìn ra vai trò của pháp quyền đối với độc lập, tự do của dân tộc. Trong Bản Yêu sách của nhân dân An Nam gửi tới Hội nghị Versailles vào năm 1919, Người đã nêu ra 8 điểm, trong đó điểm thứ hai chính là “Cải cách nền pháp lý ở Đông Dương bằng cách cho người dân bản xứ cũng được quyền hưởng những đảm bảo về mặt pháp luật như người Âu châu” và điểm thứ bảy chính là “thay chế độ ra các sắc lệnh bằng chế độ ra các đạo luật”[6]. Sau này, người đã diễn nôm những yêu sách đó trong bài “Việt Nam yêu cầu ca” (1922) để người dân dễ đọc, dễ hiểu:
“...Hai xin pháp luật sửa sang,
Người Tây người Việt hai phương cùng đồng…
...Bảy xin hiến pháp ban hành
Trăm điều phải có thần linh pháp quyền”[7].
Mặc dù viết theo lối diễn nôm, nhưng từng từ mà Người sử dụng đều ẩn ý sâu xa. “Trăm điều” phải chăng hàm ý là pháp quyền phải bao phủ lên toàn bộ mọi mặt của đời sống xã hội, không có ngoại lệ, có “vùng cấm” (tính phổ quát). “Thần linh” phải chăng hàm ý pháp quyền là điều cao cả, thiêng liêng mà mọi người đều cần phải tuân thủ một cách tự nguyện như đức tin tôn giáo (tính tối thượng). Sau này, trong Tuyên ngôn độc lập, Người đã công bố trước toàn thế giới và quốc dân đồng bào về quyền sống, quyền bình đẳng “Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được. Trong những quyền ấy có quyền sống, quyền tự do và quyền được mưu cầu hạnh phúc”[8]. Ngay sau đó, chính Người đã trực tiếp chỉ đạo soạn thảo Hiến pháp năm 1946 – bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa với tư tưởng cốt lõi tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân “Tất cả quyền binh trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo”[9].
Càng về sau, lý luận về Nhà nước pháp quyền XHCN càng được Đảng ta hoàn thiện qua các kỳ Đại hội. Bắt đầu từ Đại hội IV, V, VI đến Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991), Đảng ta xác định “Nhà nước ta phải có đủ quyền lực và đủ khả năng định ra luật pháp và tổ chức, quản lý mọi mặt của đời sống xã hội bằng pháp luật”[10]. Đến Hội nghị đại biểu toàn quốc của Đảng giữa nhiệm kỳ khóa VII (1/1994), Nghị quyết Hội nghị đã chính thức ghi nhận nguyên tắc “Nhà nước pháp quyền thực sự của dân, do dân và vì dân”[11]. Có thể nói đây là lần đầu tiên thuật ngữ “Nhà nước pháp quyền” được ghi nhận một cách chính thức trong văn kiện của Đảng. Trên cơ sở định hướng này, khi sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992 vào năm 2001, thuật ngữ này lần đầu tiên được ghi nhận trong Hiến pháp “Nhà nước Cộng hoà XHCN Việt Nam là Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức”[12]. Tư tưởng, mô hình và Nhà nước pháp quyền tiếp tục được hoàn thiện trong Văn kiện của các kỳ Đại hội IX, X, XI, XII và gần đây nhất là Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII, với một số điểm đáng chú ý như sau:
Thứ nhất, yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, cùng với hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, được gọi là một trong các đột phá chiến lược trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021-2030 (gọi tắt là Chiến lược 2021-2030)[13]. Cụ thể là, Chiến lược 2020-2030 đã xác định một trong các đột phá chiến lược là “Tiếp tục hoàn thiện và nâng cao chất lượng thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN...Xây dựng bộ máy nhà nước pháp quyền XHCN tinh gọn, hiệu lực và hiệu quả”.[14]
Thứ hai, về phương hướng, nhiệm vụ và giải pháp, Chiến lược 2021-2030 nhấn mạnh thêm một số yêu cầu cụ thể về mặt nội hàm về xây dựng Nhà nước pháp quyền:
- Tập trung hoàn thiện, nâng cao chất lượng thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, giải quyết tốt hơn quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội: tiếp tục hoàn thiện và nâng cao chất lượng thể chế, pháp luật đầy đủ, đồng bộ, hiện đại, hội nhập, ổn định, cụ thể, minh bạch. Tăng cường hiệu lực, hiệu quả các thiết chế thi hành pháp luật, bảo đảm chấp hành pháp luật nghiêm minh...Nhà nước thực hiện tốt chức năng xây dựng và quản lý thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, cơ chế, chính sách, phân bổ nguồn lực phát triển theo cơ chế thị trường. Bảo vệ quyền sở hữu tài sản hợp pháp và quyền tự do kinh doanh, thực thi hợp đồng của người dân, doanh nghiệp theo quy định của pháp luật. Sử dụng thể chế, các nguồn lực, công cụ điều tiết, cơ chế, chính sách phân phối, phân phối lại để phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo đảm an sinh, nâng cao phúc lợi xã hội và bảo vệ môi trường.
- Tiếp tục xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN kiến tạo phát triển, liêm chính, hành động; đẩy mạnh phòng, chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, tạo đột phá trong cải cách hành chính: tiếp tục xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN, nâng cao năng lực, hiệu quả quản lý, điều hành và năng lực kiến tạo phát triển. Đẩy nhanh tiến độ ban hành các luật trực tiếp triển khai thi hành Hiến pháp năm 2013. Xác định rõ hơn vai trò, vị trí, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ quan nhà nước, thực hiện tốt chức năng của Nhà nước, giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội. Đẩy mạnh việc hoàn thiện pháp luật gắn với nâng cao hiệu lực, hiệu quả tổ chức thi hành pháp luật, xây dựng được hệ thống pháp luật thống nhất, đồng bộ, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, có sức cạnh tranh quốc tế lấy quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân là trung tâm...Nhà nước quản lý, điều hành nền kinh tế bằng pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và các công cụ điều tiết trên cơ sở các quy luật thị trường...Nâng cao năng lực tổ chức thực hiện có hiệu quả hệ thống pháp luật, thể chế và các chính sách phát triển kinh tế - xã hội.
Từ những nhiệm vụ trên, Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đặt yêu cầu “Nghiên cứu, ban hành Chiến lược xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam đến năm 2030, định hướng đến năm 2045, trong đó có Chiến lược pháp luật và cải cách tư pháp”. Đây là một yêu cầu mới so với Văn kiện các kỳ Đại hội trước, là sự kế thừa tư tưởng, quan điểm của Đảng ta về Nhà nước pháp quyền XHCN, đồng thời xác định nhiệm vụ nghiên cứu, bổ sung và hoàn thiện đầy đủ về nội hàm cũng như yêu cầu xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam phù hợp với bối cảnh tình hình mới, đặc biệt là hội nhập quốc tế.
3. Mặc dù đã được đề cập từ lâu trong các nghiên cứu, tuy nhiên về mặt chủ trương chính thức, vấn đề hội nhập quốc tế, mà trước hết là hội nhập kinh tế quốc tế lần đầu tiên được ghi nhận tại Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX (2001) “Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, tranh thủ mọi thời cơ để phát triển trên nguyên tắc giữ vững độc lập tự chủ và định hướng XHCN, chủ quyền quốc gia và bản sắc văn hoá dân tộc; bình đẳng cùng có lợi, vừa hợp tác vừa đấu tranh; đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ kinh tế đối ngoại...”[15]. Ngay sau đó, ngày 27/11/2001, Bộ Chính trị khóa IX đã ban hành Nghị quyết số 07-NQ/TW “Về hội nhập kinh tế quốc tế”. Đại hội lần thứ X của Đảng (2006) tiếp tục khẳng định chủ trương “chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trong các lĩnh vực khác”[16]. Ngày 05/02/2007, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X đã ban hành Nghị quyết số 08-NQ/TW “Về một số chủ trương, chính sách lớn để nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững khi Việt Nam là thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới”. Ngày 10/4/2013, Bộ Chính trị Khóa XI ban hành Nghị quyết số 22-NQ/TW “Về hội nhập quốc tế”. Chủ trương thúc đẩy hội nhập quốc tế tiếp tục được khẳng định và hoàn thiện trong Nghị quyết Đại hội lần thứ XII của Đảng (2016) và gần đây nhất là Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng (2021): “Nâng cao mức độ và chất lượng hội nhập quốc tế để mở rộng thị trường, tranh thủ nguồn vốn, công nghệ, kiến thức và kỹ năng quản lý; nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, của doanh nghiệp và sản phẩm; thúc đẩy phát triển các ngành công nghiệp trong nước, xác lập vị trí cao hơn trong chuỗi giá trị toàn cầu; đóng góp tích cực vào quá trình đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, thu hẹp khoảng cách phát triển so với các nước phát triển hơn trong khu vực và thế giới”[17].
Như vậy có thể thấy, “hội nhập quốc tế” là chủ trương của Đảng được hình thành và phát triển không mang tính ngẫu nhiên, mà có tính hệ thống, bắt đầu từ “hội nhập kinh tế quốc tế”. Sự phát triển từ “hội nhập kinh tế quốc tế” đến “hội nhập quốc tế” không đơn thuần chỉ là sự thay đổi về mặt thuật ngữ, mà trên hết là đổi mới về tư duy hội nhập mang tính toàn diện và đồng bộ (trên các lĩnh vực như quốc phòng, an ninh, kinh tế, văn hóa, xã hội, giáo dục, y tế, khoa học công nghệ...), trong đó hội nhập kinh tế là trọng tâm. Hội nhập trong các lĩnh vực khác phải tạo thuận lợi cho hội nhập kinh tế và góp phần tích cực vào phát triển kinh tế[18].
Về bản chất, hội nhập quốc tế chính là quá trình tương tác, hợp tác, liên kết với nhau giữa các chủ thể công (Nhà nước, Chính phủ) và chủ thể tư (doanh nghiệp, các tổ chức thuộc khối tư nhân) trong một khu vực địa lý nhất định hoặc trên phạm vi toàn cầu nhằm phối hợp hành động vì mục tiêu, lợi ích chung. Thật ra, hội nhập quốc tế là mức độ phát triển cao của hợp tác quốc tế, theo đó các chủ thể có xu hướng ràng buộc với nhau bằng những công cụ pháp lý nhất định mà phổ biến nhất là các điều ước quốc tế hoặc liên kết với nhau trong khuôn khổ những định chế quốc tế và khu vực (điển hình nhất là các tổ chức quốc tế và khu vực). Trong lĩnh vực kinh tế, thương mại, sự liên kết này được thể hiện thông qua các hiệp định thương mại song phương, khu vực hoặc toàn cầu (trong khuôn khổ WTO), hình thành nên những khu vực mậu dịch tự do hoặc các liên minh thuế quan.
Việt Nam đang hội nhập sâu và rộng một cách toàn diện vào đời sống quốc tế, trong đó có lĩnh vực pháp luật, pháp quyền. Kể từ sau Chiến tranh thế giới lần thứ II, nhất là sau chiến tranh lạnh, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất, sự phát triển nhanh chóng của khoa học kỹ thuật, xu thế mở cửa khiến các quốc gia ngày càng phụ thuộc lẫn nhau, qua đó ngày càng nhận thức rõ hơn về tầm quan trọng của quan hệ quốc tế dựa trên luật lệ. Bối cảnh quan hệ quốc tế chuyển từ đối đầu sang đối thoại đòi hỏi luật pháp quốc tế phải là nền tảng định hướng việc ứng xử của các quốc gia trong giải quyết các vấn đề quốc tế. Sự xuất hiện của các vấn đề toàn cầu mà không một quốc gia nào có thể tự mình xử lý nếu không có sự liên kết với quốc gia khác (như khủng bố quốc tế; các yếu tố an ninh phi truyền thống như biến đổi khí hậu, không gian mạng, kinh tế số…). Giao lưu dân sự, thương mại giữa các quốc gia ngày càng phát triển, kéo theo đó là sự di chuyển thể nhân/pháp nhân, kéo theo đó là tranh chấp có yếu tố nước ngoài phát sinh ngày càng gia tăng, đòi hỏi phải có công cụ pháp lý, đặc biệt là pháp luật quốc tế, để giải quyết. Thực tế đã cho thấy giao lưu dân sự, thương mại, đầu tư càng tăng thì các tranh chấp cũng phát sinh càng nhiều cả về quy mô, tính chất, chủ thể (như tranh chấp giữa Chính phủ với nhà đầu tư nước ngoài ngày càng gia tăng).
Về quan hệ quốc tế, đến nay, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 189 trong 193 quốc gia thành viên Liên hợp quốc; thiết lập khuôn khổ quan hệ ổn định, lâu dài với 30 đối tác chiến lược và toàn diện, tạo nền tảng vững chắc để Việt Nam cùng các nước nâng tầm hợp tác vì lợi ích của mỗi nước, vì hòa bình, hợp tác và phát triển ở khu vực và trên thế giới[19]. Trong bối cảnh đó, pháp quyền trong quan hệ quốc tế ngày càng được đề cao, đóng vai trò “chuẩn mực” không chỉ trong quan hệ giữa các quốc gia mà còn trong các quan hệ giữa mỗi quốc gia với các cá nhân, tổ chức “có yếu tố nước ngoài” trên lãnh thổ của quốc gia mình. Chương trình nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững của Liên hợp quốc nhấn mạnh phương thức tăng trưởng, hợp tác kinh tế, thương mại, đầu tư trên thế giới, trong đó có đề cao vai trò của pháp quyền, tiếp cận công lý “thúc đẩy các xã hội hòa bình và hòa nhập để phát triển bền vững, cung cấp quyền tiếp cận công lý cho tất cả mọi người và xây dựng các thể chế hiệu quả, có trách nhiệm và bao trùm ở tất cả các cấp”[20].
Luật pháp quốc tế được xây dựng, phát triển thông qua các thiết chế/cơ chế chủ yếu như Liên hợp quốc UN (thực hiện chức năng hình thành và phát triển luật pháp quốc tế chủ yếu thông qua các thiết chế trực thuộc như Đại hội đồng, Ủy ban 6 về pháp lý của Đại hội đồng, Ủy ban Luật quốc tế (ILC), Tòa án Công lý quốc tế ICJ); Tổ chức thương mại thế giới WTO (đàm phán xây dựng và theo dõi thực thi các hiệp định thương mại đa phương; giải quyết tranh chấp thương mại giữa các thành viên); các tổ chức quốc tế khác (WHO, WIPO); các định chế tài chính, tiền tệ quốc tế (WB, IMF, ADB); các cơ quan tài phán quốc tế (ngoài Tòa án công lý quốc tế ICJ còn có Tòa ICC, PCA; các cộng đồng liên kết cấp độ khu vực (EU, ASEAN)... Ngoài ra, các quốc gia/tổ chức quốc tế còn ký kết các ĐƯQT trong đó có chứa đựng các quy phạm pháp luật quốc tế có giá trị ràng buộc với các bên. Thực tế trong thời gian qua số lượng các ĐƯQT, được ký kết ngày càng nhiều và đi liền với đó là cơ chế đảm bảo thực thi các cam kết quốc tế ngày càng được đề cao, qua đó vị trí của pháp luật quốc tế cũng ngày càng được khẳng định. Đối với Việt Nam, pháp luật quốc tế đã và đang là công cụ được sử dụng ngày càng nhiều trong nghiên cứu, tham mưu xây dựng và tổ chức thực hiện các chủ trương, chính sách, pháp luật và nhiều mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc, đặc biệt là bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ. Quan điểm đề cao vai trò của pháp luật quốc tế và cam kết thực hiện nghiêm túc các ĐƯQT trong thời gian qua đã góp phần nâng cao vị thế, uy tín, vai trò của Việt Nam trong quan hệ quốc tế.
4. Xuất phát từ thực tiễn, yêu cầu hội nhập quốc tế như trên, có thể cân nhắc một số vấn đề đặt ra cần chú ý trong quá trình xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam hiện nay như sau:
Thứ nhất, cần phải khẳng định xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam là nhu cầu mang tính tất yếu, nội tại, nhằm không ngừng đảm bảo quyền con người, quyền công dân, đảm bảo và phát huy dân chủ trong chế độ XHCN. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói “Nước ta là nước dân chủ…Bao nhiêu quyền hạn đều của dân…quyền hành và quyền lực đều ở nơi dân”[21]; “Chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương đều do nhân dân cử mà ra”[22]. Mục tiêu quan trọng nhất của xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam không ngoài việc đảm bảo cho người dân một cuộc sống ấm no, hạnh phúc, môi trường xã hội ổn định, công lý được đảm bảo và thực thi. Bản chất của Nhà nước pháp quyền chính là giải quyết mối quan hệ giữa Nhà nước và công dân dựa trên nền tảng dân chủ. Luật pháp ban hành và thực thi phải dựa trên nền tảng dân chủ thì luật pháp ấy mới thực sự đi vào cuộc sống, đồng thời thể hiện tính ưu việt của chế độ ta.
Thứ hai, khi xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam cần vận dụng có chọn lọc những giá trị và tiến bộ của văn minh thế giới. Do đặc thù lịch sử nhiều năm phải tập trung đấu tranh giành độc lập dân tộc, nước ta đã bị “tụt hậu” so với nhiều nước phát triển trên thế giới và cả trong khu vực về trình độ phát triển kinh tế, trong đó có cả năng lực quản trị quốc gia, quản lý xã hội dựa trên luật pháp. Do đó, việc học hỏi những mô hình hay, thực tiễn tốt trên thế giới sẽ góp phần xử lý được nhiều vấn đề ở tầm vĩ mô và cả những vấn đề cụ thể (như áp dụng những tiến bộ của cách mạng khoa học công nghệ lần thứ 4 vào quản trị quốc gia, chuyển đổi số, tăng trưởng xanh...). Ngoài ra, có những nguyên tắc, giá trị đã và đang mang tính phổ quát, được thừa nhận rộng rãi (đặc biệt là các nguyên tắc trong Hiến chương Liên hợp quốc và các ĐƯQT, thể chế, thiết chế pháp lý quốc tế mà Việt Nam là thành viên) thì cần được tôn trọng, nội luật hóa để đảm bảo thực thi, phù hợp với nguyên tắc thiện chí thực thi các cam kết quốc tế (pacta sunt servanda) quy định tại Điều 26 Công ước Viên năm 1969 về luật điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Trong hoàn thiện hệ thống pháp luật cần chú ý tham khảo kinh nghiệm quốc tế trên cơ sở phân tích thấu đáo cơ sở lý luận và thực tiễn[23].
Thứ ba, cần chú ý vấn đề bảo hộ về pháp lý, đặc biệt là quyền sở hữu của các nhà đầu tư nước ngoài làm ăn tại Việt Nam. Thế giới đang chứng kiến sự cạnh tranh về hạ tầng, nguồn nhân lực...để thu hút đầu tư nước ngoài, trong đó có cả cạnh tranh về mặt thể chế, pháp luật. Một hệ thống pháp luật thống nhất, đồng bộ, minh bạch, dễ tiếp cận và có thể định đoán trước sẽ là yếu tố vô cùng quan trọng để nhà đầu tư nước ngoài cân nhắc quyết định chọn địa điểm tiến hành đầu tư, kinh doanh. Cơ chế bảo hộ về pháp lý rõ ràng, đặc biệt là bảo hộ quyền sở hữu một cách ổn định sẽ gửi đi thông điệp hết sức tin cậy đối với nhà đầu tư nước ngoài, đồng thời cũng phòng tránh được những vụ kiện đầu tư quốc tế mà Chính phủ phải bỏ ra rất nhiều nguồn lực để tham gia giải quyết.
Thứ tư, cần lưu ý hoàn thiện hệ thống giải quyết tranh chấp (cả hệ thống tòa án và cơ chế giải quyết tranh chấp thay thế như hòa giải, trọng tài) nhằm tạo niềm tin đối với người dân, doanh nghiệp, trong đó có nhà đầu tư nước ngoài. Thực tế cho thấy cho dù hệ thống pháp luật đầy đủ, minh bạch nhưng hệ thống giải quyết tranh chấp không được vận hành một cách hiệu quả, công lý không được bảo đảm và thực thi trên thực tế, thì hệ thống pháp luật ấy cũng không phát huy hiệu quả. Xi rê on- một luật sư và là nhà hùng biện nổi tiếng La Mã cổ đại đã từng có một câu nói về vai trò quan trọng trên thực tế của quan tòa: “Quan toà là một đạo luật biết nói, còn đạo luật là một vị quan toà câm”. Ngoài ra, cần chú ý vấn đề công nhận và thi hành các bản án của tòa án, quyết định của trọng tài nước ngoài, nhằm đảm bảo quyền lợi cho các bên đương sự, qua đó gó phần khẳng định một cách mạnh mẽ nguyên tắc Nhà nước Việt Nam nghiêm túc thực thi các cam kết quốc tế.
Thứ năm, không ngừng thể hiện uy tín, trách nhiệm của Việt Nam trước cộng đồng quốc tế, cần tiếp tục khẳng định Việt Nam coi trọng và đề cao nguyên tắc pháp quyền. Tiếp tục tham gia tích cực vào quá trình xử lý các vấn đề mang tính toàn cầu, vì lợi ích của toàn nhân loại hôm nay và của cả thế hệ mai sau (điển hình như biến đổi khí hậu, an ninh toàn cầu, chống khủng bố...). Chủ động, tích cực tham gia xây dựng thể chế pháp lý đa phương trong khuôn khổ của Liên hợp quốc và các tổ chức quốc tế thông qua việc nâng cao hiệu quả công tác nghiên cứu khoa học, đào tạo, bồi dưỡng về pháp luật quốc tế. Tôn trọng và thực hiện nghiêm các cam kết quốc tế phát sinh từ các ĐƯQT mà Việt Nam là thành viên, tuy nhiên trong quá trình thực hiện cũng cần tính đến cả nguyên tắc có đi có lại (cần tránh cả hai khuynh hướng không thực hiện, thực hiện không đầy đủ hoặc thực hiện một cách cơ học, máy móc các ĐƯQT không tính đến lợi ích của quốc gia, dân tộc). Có kế hoạch hành động cụ thể với lộ trình rõ ràng để thực thi các Hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới, trong đó lưu ý vấn đề hoàn thiện pháp luật trong nước để đảm bảo sự tương thích với các cam kết của Việt Nam trong các FTA[24]. Chủ động khai thác tối đa lợi ích mang lại đồng thời có phương án phù hợp nhằm khắc phục những tác động tiêu cực từ các ĐƯQT, trong đó đặc biệt là các FTA.
Thứ sáu, trong xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền, mặc dù đặt trong bối cảnh hội nhập quốc tế, tuy nhiên không được tách rời điều kiện đặc thù của thể chế chính trị, điều kinh tế-xã hội của Việt Nam. Nhà nước pháp quyền XHCN là mô hình Nhà nước do Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo để giữ vững định hướng XHCN. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói “Đảng ta là một Đảng cách mạng theo chủ nghĩa Mác – Lênin…Đảng ta là một Đảng lãnh đạo”[25]; “Đảng Cộng sản cầm quyền, tổ chức ra Chính phủ công-nông-binh”[26]. Đây chính là khía cạnh quan trọng của “quyền tự quyết dân tộc”. Nội hàm cơ bản của quyền này là việc một dân tộc hoàn toàn tự do trong việc tiến hành cuộc đấu tranh giành độc lập cũng như lựa chọn thể chế chính trị, đường lối phát triển đất nước. Khoản 2. Điều 1 Hiến chương Liên hợp quốc cũng đã đã ghi nhận “phát triển quan hệ hữu nghị giữa các dân tộc trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc bình đẳng về chủ quyền và dân tộc tự quyết”. Nhận thức rõ đặc thù này để tránh khuynh hướng mơ hồ, rập khuôn, “nhập khẩu pháp luật”, từ đó dẫn đến nguy cơ du nhập, truyền bá các giá trị, tư tưởng không phù hợp với thể chế chính trị và điều kiện, hoàn cảnh thực tiễn của Việt Nam./.
Vụ trưởng Vụ Hợp tác quốc tế, Bộ Tư pháp