Thế giới đã bước sang năm COVID-19 thứ ba khi biến thể Omicron của virus SARS_CoV-2, chủng virus được phát hiện lần đầu ở Trung Quốc cuối năm 2019, đang làm đảo lộn kế hoạch đón Năm mới 2022 ở nhiều quốc gia. Trong bối cảnh hầu hết các nước đã chuyển hướng từ chiến lược "không ca mắc" để tập sống chung an toàn với dịch bệnh, thách thức lớn nhất lúc này là phải xác định mức độ lây nhiễm có thể chấp nhận được đối với từng quốc gia trong một thế giới ngày càng kết nối với nhau.
Ảnh minh họa - AFP
Nhiều quốc gia đã mở cửa trở lại cho khách du lịch quốc tế và nối lại các hoạt động thông thương, do vậy nguy cơ lây lan biến thế Omicron là rất khó tránh khỏi. Hiện biến thể Omicron đã xuất hiện ở khoảng 110 quốc gia và vùng lãnh thổ, nhưng có vẻ các nước đã rút ra nhiều bài học và với những kinh nghiệm xương máu trong 2 năm chống dịch vừa qua, thế giới hoàn toàn có thể vượt qua "cơn sóng thần" lây nhiễm mới lần này.
Tổng Giám đốc Tổ chức Y tế thế giới (WHO) Tedros Adhanom Ghebreyesus tuyên bố nhân loại phải kết thúc đại dịch trong năm 2022, nhấn mạnh con người đã có trong tay mọi công cụ để làm được điều đó. Chuyên gia hàng đầu của WHO Maria Van Kerkhove khẳng định con người hoàn toàn có thể tránh kịch bản tồi tệ nhất quay trở lại. Nhiều loại vaccine đã được phát triển, kể cả dạng tiêm cho tới dạng xịt mũi hay dạng uống, rất nhiều người đã được miễn dịch và cũng đã có nhiều phác đồ điều trị hiệu quả căn bệnh này. Theo bà Kerkhove, với những công cụ này "chúng ta có thể giảm tỷ lệ mắc bệnh, nhập viện, bệnh nặng, giảm số người phải chăm sóc tích cực và số người đang hấp hối. Chúng ta có thể khiến COVID-19 không còn gây chết chóc nữa và cũng có thể giảm sự lây lan của nó". Tổng thống Mỹ Joe Biden cũng khẳng định: "Tất cả chúng ta đều lo lắng về Omicron nhưng không được hoảng sợ. Đây không còn là thời điểm tháng 3/2020. Chúng ta đã được chuẩn bị và có sự hiểu biết nhiều hơn (về cách thức ứng phó dịch COVID-19)".
Mặc dù hiện Omicron đã trở thành biến thể gây bệnh chủ đạo tại Mỹ, Anh, Đan Mạch, Bồ Đào Nha..., nhưng giới khoa học cho rằng quá trình này đang diễn ra tương tự như khi biến thể Alpha xuất hiện, gần như "xóa sổ" chủng gốc (lần đầu được phát hiện ở Vũ Hán), và sau đó lại bị biến thể Delta thay thế. Omicron cũng có thể sẽ dần thay thế Delta, trong khi không loại trừ khả năng xuất hiện biến thể mới "lấn át" Omicron.
Sẽ cần thêm thời gian để đánh giá mức độ nguy hiểm của biến thể Omicron, song hầu hết các nghiên cứu cho tới thời điểm này đều chung quan điểm Omicron lây lan rất nhanh nhưng gây triệu chứng nhẹ hơn nhiều và tỷ lệ tử vong cũng giảm so với các phiên bản trước. Báo cáo chính thức đầu tiên của Vương quốc Anh cho thấy nguy cơ nhập viện do nhiễm Omicron thấp hơn từ 50 đến 70% so với Delta. Điều đó khiến nhà chuyên gia lạc quan dự báo sự xuất hiện của Omicron có thể sẽ là sự khởi đầu cho đoạn kết của "cơn ác mộng đại dịch", thậm chí mở ra tương lai con người sống chung hòa bình với loại virus này như một căn bệnh đặc hữu.
Nhà virus học Trevor Bedford thuộc Trung tâm nghiên cứu ung thư Fred Hutchinson (Mỹ) thường xuyên theo dõi sự tiến hóa của virus SARS-CoV-2, đánh giá sau làn sóng lây nhiễm biến thể Omicron với tốc độ cực nhanh vào mùa Đông này sẽ là quá trình chuyển đổi sang bệnh đặc hữu trong giai đoạn 2022-2023.
Tiến sĩ Bruce Farber, Giám đốc bộ phận chuyên trách về các bệnh truyền nhiễm tại Bệnh viện New Hyde Park (Mỹ), cho rằng kịch bản hoàn hảo là biến thể mới rất dễ lây lan nhưng không khiến hầu hết mọi người trở nặng và tạo ra mức độ miễn dịch tạm thời. Ông Farber nhận định: “Điều đó chắc chắn có thể giúp chấm dứt tình trạng quá nhiều người phải nhập viện và tử vong do COVID-19”.
Theo Tiến sĩ Timothy Brewer, Trường Y David Geffen (Mỹ), COVID-19 sẽ không bao giờ biến mất hoàn toàn. Điều đó có nghĩa đây sẽ là căn bệnh đặc hữu và mọi người sẽ phải học cách sống chung với virus. Tiêm chủng thường xuyên và điều trị bằng thuốc kháng virus kết hợp với khả năng miễn dịch sau khi nhiễm bệnh có thể làm cho các đợt bùng phát COVID-19 ít nghiêm trọng hơn đáng kể trong năm tới.
Các chuyên gia kỳ vọng những quốc gia đầu tiên thoát khỏi đại dịch sẽ là những nơi có sự kết hợp giữa tỷ lệ tiêm chủng cao và khả năng miễn dịch tự nhiên ở những người đã mắc COVID-19, như Mỹ, Anh, Bồ Đào Nha, Ấn Độ.... Các quốc gia nghèo hơn với tỷ lệ tiêm phòng rất thấp có thể sẽ phải chờ thêm một vài năm mới thoát đại dịch. Tình trạng lây lan của virus SARS-CoV-2 trong cộng đồng một phần phụ thuộc vào mức độ ứng phó với bệnh dịch của các chính phủ và người dân. Chìa khóa để kiểm soát dịch vẫn là tăng tỷ lệ bao phủ vaccine. Để có thể khống chế đại dịch trong năm 2022, các chuyên gia cho rằng thế giới cần đẩy nhanh hơn nữa tốc độ tiêm phòng, đặc biệt là mũi tăng cường, nghiên cứu cải tiến vaccine nếu cần thiết và phân phối nguồn cung bình đẳng.Kết quả phân tích mới công bố của nhóm nghiên cứu thuộc Đại học Hoàng gia London, một trong những trường đại học danh giá và lâu đời nhất nước Anh, cho thấy liều tăng cường có khả năng đạt hiệu quả 80-85,9% trong ngăn bệnh trở nặng ở những người nhiễm Omicron. Do vậy, nhiều quốc gia trên thế giới đã rút ngắn thời gian chờ tiêm liều tăng cường vaccine ngừa COVID-19, từ 6 tháng xuống gần nhất là 3 hoặc 4 tháng. Một số nước như Brazil, Anh, Israel còn đang cân nhắc bổ sung thêm 1 liều nữa sau liều tăng cường cho những đối tượng dễ tổn thương. Theo Bác sĩ Anthony Fauci, chuyên gia về dịch tễ học tại Mỹ, việc tiêm liều tăng cường ít nhất sẽ giúp tăng khả năng bảo vệ chéo của vaccine ở mức nhất định, có thể chống lại bệnh nặng, thậm chí chống lại biến thể Omicron.
Cả thế giới đang nỗ lực đạt tỷ lệ miễn dịch trong cộng đồng, đây là điều cần thiết để giảm tối thiểu số ca tử vong, bệnh chuyển biến nặng. Điều này đòi hỏi phải có ít nhất 70% dân số thế giới, hầu hết là người lớn, thanh thiếu niên và đa số những người có nguy cơ mắc bệnh nặng, được tiêm đủ liều cơ bản (tiêm 1 hoặc 2 hoặc 3 mũi tùy theo loại vaccine). WHO cho rằng thế giới có thể đạt được mục tiêu này vào nửa cuối năm 2022. Theo ước tính của WHO, để tiêm phòng đủ liều cơ bản cho 70% dân số toàn cầu, thế giới cần ít nhất 11 tỷ liều vaccine phòng COVID-19. Xét từ góc độ nguồn cung, với sản lượng toàn cầu gần 1,5 tỷ liều mỗi tháng, thế giới sẽ có đủ vaccine để đạt được các mục tiêu tiêm phòng toàn cầu nếu vaccine được phân phối công bằng. Tại thời điểm này, điều quan trọng là phải sắp xếp nguồn cung toàn cầu bằng cách đẩy nhanh các chuyến vaccine đến các quốc gia không được cung ứng đầy đủ, ưu tiên các hợp đồng và khoản tài trợ theo Cơ chế phân phối vaccine phòng COVID-19 công bằng toàn cầu (COVAX) và Quỹ tín thác mua vaccine cho người dân châu Phi của Liên minh châu Phi (AVAT), đồng thời xác định và giải quyết bất kỳ khoảng trống hợp đồng còn tồn đọng nào cho các quốc gia cụ thể. Tổng Thư ký Liên hợp quốc Antonio Guterres cho rằng cần có sự phối hợp để thoát khỏi đại dịch COVID-19 cho tất cả mọi người, ở mọi nơi. Nếu không có cách tiếp cận phối hợp, bình đẳng, việc giảm thiểu các trường hợp mắc bệnh ở bất kỳ quốc gia nào cũng sẽ không được duy trì theo thời gian.
Thuốc điều trị cũng đóng vai trò then chốt và thậm chí, theo như một số nhà khoa học, thuốc điều trị có thể trở nên quan trọng hơn nếu khả năng bảo vệ của vaccine trước biến thể Omicron giảm. Thuốc điều trị hứa hẹn sẽ giảm khả năng nguy cơ chuyển biến nặng và nhập viện ở các bệnh nhân mắc COVID-19. Tuy nhiên, tương tự như vaccine, việc phân phối công bằng thuốc điều trị là yếu tố mang tính quyết định đối với hiệu quả của công cụ này trong cuộc chiến chấm dứt đại dịch.
Với cách tiếp cận mang tính toàn cầu và nỗ lực chung của cả thế giới, hy vọng những ngày tháng đen tối nhất của đại dịch sẽ đi qua. Virus có lẽ vẫn hiện diện nhưng nếu con người được trang bị những công cụ phù hợp, COVID-19 sẽ không còn "thống trị" cuộc sống của chúng ta. Nói cách khác, COVID-19 không còn là một đại dịch mà sẽ trở thành bệnh đặc hữu và con người có khả năng khống chế. Khi đó, mỗi người, mỗi cộng đồng, mỗi quốc gia sẽ chủ động điều chỉnh để sống an toàn trong điều kiện “bình thường mới”, vừa ứng phó với virus, vừa bảo đảm phát triển kinh tế-xã hội, khôi phục cuộc sống thường nhật./.