Nhờ đó, nền tư pháp nước ta đã đạt được những thành tựu quan trọng, góp phần thực hiện hiệu quả nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Bài viết làm rõ quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay.
Thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp, nền tư pháp nước ta đã đạt được những thành tựu quan trọng; vị thế, diện mạo, uy tín của Tòa án được nâng cao; nhận thức về vai trò, vị trí của Tòa án có nhiều chuyển biến tích cực. Hiến pháp năm 2013 đã khẳng định Tòa án là cơ quan xét xử, thực hiện quyền tư pháp, “Tòa án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân”(3). Chức năng, nhiệm vụ, mô hình tổ chức bộ máy của tòa án nhân dân được đổi mới mạnh mẽ. Pháp luật về tư pháp từng bước được hoàn thiện. Đội ngũ cán bộ, công chức, đặc biệt là đội ngũ thẩm phán, thẩm tra viên, thư ký tòa án được nâng cao cả về chất lượng và số lượng(4); sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác tòa án, vai trò, trách nhiệm của cấp ủy, tổ chức đảng các cấp trong lãnh đạo, chỉ đạo công tác tòa án được tăng cường...
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, nền tư pháp nước ta cũng còn một số hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu và mong muốn của người dân. Thực tiễn vẫn còn nhiều vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu như: chưa có sự thống nhất trong nhận thức về nội hàm quyền tư pháp, chủ thể thực hiện quyền tư pháp; một số nhiệm vụ Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02-6-2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đề ra chưa được triển khai thực hiện hoặc đã triển khai nhưng chưa đáp ứng được yêu cầu(5). Trong tổ chức và hoạt động của tòa án cũng còn những vấn đề cần được tháo gỡ như: tòa án chưa thực sự độc lập; thẩm quyền của tòa án còn nhiều bất cập; tính chuyên môn hóa, chuyên nghiệp chưa cao; mâu thuẫn giữa công việc và biên chế; chế độ, chính sách chưa tương xứng với yêu cầu nhiệm vụ; cơ chế nhân dân tham gia hoạt động xét xử chưa thực chất; kinh phí, cơ sở vật chất chưa đáp ứng được yêu cầu chủ động thực hiện chức năng, nhiệm vụ...
1. Quan điểm, mục tiêu cải cách tư pháp
* Cải cách tư pháp cần quán triệt các quan điểm sau:
Cải cách tư pháp là nhiệm vụ trung tâm và quan trọng để xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; tuân thủ nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp và do Đảng lãnh đạo; tăng cường quyền uy tư pháp.
Cải cách tư pháp phải xuất phát từ yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng xã hội dân chủ, công bằng, văn minh; lấy nhân dân làm trung tâm; phù hợp với đòi hỏi của Nhà nước pháp quyền XHCN; được tiến hành đồng bộ, gắn liền với đổi mới lập pháp, cải cách hành pháp, phù hợp với quy luật phát triển khách quan của xã hội Việt Nam, góp phần bảo đảm an toàn pháp lý cho tổ chức, cá nhân, qua đó thúc đẩy phát triển đất nước, hội nhập quốc tế trong tình hình mới.
Cải cách tư pháp trên cơ sở xác định cơ quan tư pháp là tòa án, thực hiện đúng chức năng của cơ quan xét xử, thực hiện quyền tư pháp; được giao đủ thẩm quyền để xử lý, phán quyết bằng thủ tục tư pháp công khai đối với mọi vi phạm pháp luật, mọi tranh chấp phát sinh trong đời sống xã hội.
Cải cách tư pháp phải tuân thủ đầy đủ các nguyên tắc pháp quyền XHCN, các nguyên tắc tư pháp cơ bản, kế thừa truyền thống và các giá trị pháp lý dân tộc, những kết quả của cải cách tư pháp đã đạt được; tiếp thu có chọn lọc các thành tựu của khoa học pháp lý tiên tiến, những kinh nghiệm của quốc tế phù hợp với điều kiện nước ta.
Cải cách tư pháp phải được tiến hành với quyết tâm chính trị cao, khẩn trương, đồng bộ; xác định rõ những nội dung trọng tâm, trọng điểm; có chương trình, kế hoạch, lộ trình cải cách phù hợp; xác định rõ thẩm quyền và trách nhiệm của từng cơ quan, tổ chức, cá nhân trong thực hiện cải cách tư pháp nhằm hướng đến mục tiêu để nhân dân thụ hưởng thành quả cải cách tư pháp.
* Mục tiêu tổng quát của cải cách tư pháp là: Xây dựng nền tư pháp Việt Nam độc lập, chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng, nghiêm minh, liêm chính, hiệu lực, hiệu quả, phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân để tòa án hoàn thành sứ mệnh bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của tổ chức, cá nhân.
Mục tiêu cụ thể:
Để hướng đến mục tiêu tổng quát, cần thực hiện được các mục tiêu cụ thể sau:
Xây dựng nền tư pháp độc lập, chuyên nghiệp, hiện đại, nghiêm minh. Tòa án có đủ thẩm quyền và năng lực để xử lý các vi phạm pháp luật, giải quyết các tranh chấp xảy ra trong xã hội, bảo đảm quyền tài phán quốc gia.
Xây dựng nhân lực của tòa án, trước hết là thẩm phán trong sạch, liêm chính, vững về chính trị, giỏi về nghiệp vụ, tinh thông về pháp luật, công tâm và bản lĩnh, kỷ cương và nhân ái; đổi mới và cơ cấu lại các chức danh tư pháp.
Đổi mới tổ chức bộ máy, thực hiện đầy đủ chức năng, quyền hạn tư pháp; nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động và uy tín để tòa án thực sự là hiện thân của lẽ phải và công lý.
Từng bước hiện đại hóa cơ sở vật chất của tòa án, xây dựng tòa án điện tử.
2. Nhiệm vụ và giải pháp
Một là, xây dựng cơ quan tư pháp vì nhân dân, phục vụ nhân dân để nhân dân cảm thụ công bằng, lẽ phải qua mỗi phán quyết tư pháp, bảo vệ quyền uy tư pháp, tăng cường tính nhân dân trong hoạt động tư pháp
* Xây dựng cơ quan tư pháp vì nhân dân, phục vụ nhân dân: (1) Tiếp tục nâng cao chất lượng xét xử, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ lợi ích hợp pháp, chính đáng của cá nhân; bảo vệ cuộc sống thanh bình của nhân dân, nâng cao niềm tin của người dân vào một nền tư pháp dân chủ, công bằng, nghiêm minh; (2) Tuân thủ nghiêm ngặt thời hạn tố tụng để hoạt động xét xử không chậm trễ, kịp thời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân; (3) Tăng cường giải pháp hòa giải, đối thoại để giải quyết các xung đột xã hội một cách thân thiện, giữ gìn hòa thuận trong nhân dân; (4) Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, tạo thuận lợi cho nhân dân trong quá trình tham gia tố tụng tại tòa án; (5) Thực hiện thực chất công khai tư pháp để nhân dân tiếp cận thông tin tư pháp một cách đầy đủ và thuận tiện; (6) Cung cấp các dịch vụ tư pháp công để phục vụ nhân dân, tiết kiệm công sức, thời gian, kinh phí của nhân dân.
* Đổi mới và nâng cao hiệu quả của cơ chế nhân dân tham gia xét xử tại tòa án:
Xây dựng một đạo luật độc lập về hội thẩm, trong đó, (1) Đổi mới tiêu chuẩn của hội thẩm; (2) Mở rộng cơ cấu thành phần, đối tượng tham gia làm hội thẩm; (3) Hoàn thiện các quy định về nhiệm kỳ, việc tuyển chọn, bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm, chế độ, chính sách đối với hội thẩm; (4) Đổi mới cơ chế quản lý hội thẩm nhân dân; (5) Thay đổi số lượng hội thẩm nhân dân trong hội đồng xét xử; (6) Đổi mới chức năng nhiệm vụ của hội thẩm nhân dân trong hội đồng xét xử; (7) Xây dựng cơ chế xử lý xung đột quan điểm giải quyết vụ án giữa thẩm phán và hội thẩm khi xét xử; (8) Quy định về lựa chọn ngẫu nhiên hội thẩm; (9) Tăng cường hội thẩm nhân dân có chuyên môn sâu trong các vụ án chuyên biệt, đặc thù; (10) Nghiên cứu, xây dựng quy chế về hội thẩm; (11) Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng kỹ năng, nghiệp vụ xét xử cho hội thẩm.
Nghiên cứu, bổ sung chế định hội thẩm đoàn trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
* Tăng cường sự giám sát của các cơ quan dân cử đối với hoạt động tư pháp: (1) Nâng cao hiệu quả, đổi mới cơ chế nhân dân tham gia xét xử để nhân dân thực hiện quyền giám sát một cách thực chất, trực tiếp từ bên trong hoạt động của tòa án; (2) Xây dựng cơ chế để nhân dân góp ý và tiếp nhận ý kiến phản ánh của nhân dân đối với hoạt động tư pháp; (3) Đổi mới việc chất vấn, trả lời chất vấn, báo cáo hoạt động của tòa án trước cơ quan dân cử để bảo đảm độc lập tư pháp; (4) Tăng cường công tác giám sát theo chuyên đề, giám sát đột xuất của cơ quan dân cử đối với công tác tòa án; (5) Công khai kết quả giám sát để cử tri được biết; (6) Quy phạm hóa hoạt động giám sát tư pháp.
Hai là, xác định đúng chức năng thực hiện quyền tư pháp, đặc trưng cơ bản của quyền tư pháp và chủ thể thực hiện quyền tư pháp
Nội hàm của quyền tư pháp: Quyền tư pháp bao gồm: (1) Quyền xét xử; (2) Quyền quyết định những vấn đề liên quan đến quyền con người, quyền công dân; (3) Quyền quyết định tính hợp hiến, hợp pháp của các văn bản quy phạm pháp luật.
Quyền xét xử do tòa án thực hiện, bao gồm quyền phán xét, quyền phán quyết đối với những hành vi vi phạm pháp luật, tranh chấp trên cơ sở pháp luật và niềm tin nội tâm.
* Đặc trưng cơ bản của quyền tư pháp ở Việt Nam gồm: (1) Tính độc lập trong cơ chế phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực nhà nước do Đảng lãnh đạo; (2) Quyền tư pháp được thực hiện theo một quy trình tố tụng nghiêm ngặt; (3) Có hiệu lực bắt buộc mà các tổ chức, cá nhân phải nghiêm chỉnh chấp hành; (4) Được bảo đảm thi hành bằng quyền lực nhà nước trong phạm vi toàn quốc bởi cơ quan thi hành án chuyên trách; (5) Phán quyết tư pháp không bị thay đổi tùy tiện trừ khi bị chính tòa án thay đổi, hủy bỏ theo đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục luật định; (6) Phán quyết tư pháp khi đã tuân thủ đầy đủ quy trình tố tụng nhưng có sai sót không phải do lỗi chủ quan thì được miễn trừ trách nhiệm; chỉ bị kháng cáo, kháng nghị.
* Chủ thể thực hiện quyền tư pháp: Hiến pháp năm 2013 đã phân công rành mạch việc thực hiện quyền lực nhà nước theo đó: Quốc hội là cơ quan thực hiện quyền lập hiến, lập pháp (Điều 69), Chính phủ là cơ quan thực hiện quyền hành pháp (Điều 94), tòa án là cơ quan thực hiện quyền tư pháp (Điều 102). Việc phân công thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp phải căn cứ vào những chức năng cơ bản của từng cơ quan, không căn cứ vào một số hoạt động, nhiệm vụ mà cơ quan đó thực hiện. Như vậy, Hiến pháp năm 2013 đã quy định tòa án là chủ thể thực hiện quyền tư pháp, chỉ có tòa án là cơ quan tư pháp.
Ba là, hoàn thiện, đổi mới nhiệm vụ, thẩm quyền và tổ chức bộ máy của cơ quan tư pháp
* Hoàn thiện, đổi mới nhiệm vụ, thẩm quyền của tòa án
Hoàn thiện nhiệm vụ của tòa án theo cấp xét xử. Phân định rõ nhiệm vụ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, theo đó: (1) Cấp xét xử sơ thẩm có nhiệm vụ xem xét, đánh giá toàn diện các tài liệu, chứng cứ để xác định sự thật, tính có căn cứ của vụ án và áp dụng pháp luật. Bổ sung và làm rõ nội hàm của nhiệm vụ xác định sự thật của vụ án, theo đó, tòa án có nhiệm vụ xác định các tình tiết, sự thật, tính có căn cứ của vụ án; loại trừ các yếu tố không phải sự thật của vụ án; xem xét đủ hay không đủ điều kiện, tiêu chí để khẳng định sự thật vụ án, trên cơ sở đó để ra phán quyết. (2) Cấp xét xử phúc thẩm có nhiệm vụ chỉ giải quyết vướng mắc về xác định sự thật và áp dụng pháp luật của cấp sơ thẩm. (3) Giám đốc thẩm, tái thẩm có nhiệm vụ vừa sửa sai đối với bản án có vi phạm vừa phải bảo vệ hoạt động xét xử và áp dụng thống nhất pháp luật. Do vậy, phải khắc phục tình trạng lạm dụng giám đốc thẩm, tái thẩm, bảo đảm tố tụng có điểm dừng và không trở thành cấp xét xử thứ ba. Bỏ thủ tục xem xét lại quyết định của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.
Hoàn thiện thẩm quyền, thủ tục giải quyết yêu cầu liên quan đến quyền con người, nhất là: yêu cầu giải quyết việc dân sự, yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời; việc đưa người nghiện ma túy từ đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi vào cơ sở cai nghiện bắt buộc...
Bổ sung nhiệm vụ giải thích pháp luật thông qua hoạt động xét xử và tuyên bố văn bản quy phạm pháp luật trái với Hiến pháp, luật; nghiên cứu, xem xét, quyết định xử phạt vi phạm hành chính; bảo đảm việc hạn chế quyền con người của đương sự, bị can, bị cáo... trong hoạt động tố tụng được thực hiện bởi phán quyết của cơ quan tư pháp. Đổi mới nhiệm vụ ban hành án lệ, hướng dẫn áp dụng án lệ và tăng cường bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật. Bỏ một số nhiệm vụ của tòa án đối với những việc thuộc chức năng buộc tội của cơ quan công tố (nhất là nhiệm vụ của hội đồng xét xử ra quyết định khởi tố vụ án hình sự tại phiên tòa, nhiệm vụ trả hồ sơ để điều tra bổ sung của thẩm phán chủ tọa phiên tòa, hội đồng xét xử...). Xác định rõ thẩm quyền, trách nhiệm thu thập chứng cứ trong vụ án hình sự thuộc về cơ quan điều tra và công tố; trong vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động, hành chính thuộc về các bên đương sự, vì vậy cần hạn chế thẩm quyền, trách nhiệm thu thập chứng cứ của tòa án.
Nghiên cứu chế định bảo vệ Hiến pháp bằng tòa án.
* Đổi mới tổ chức bộ máy của tòa án
Tiếp tục hoàn thiện mô hình tổ chức bộ máy của tòa án khoa học, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; theo thẩm quyền xét xử, không phụ thuộc vào đơn vị hành chính; tăng cường tính độc lập giữa các cấp tòa án; các vụ án đặc thù phải được xét xử tại tòa án chuyên biệt nhằm phát huy ưu thế chuyên môn trong việc xét xử; mô hình, quy mô, tổ chức bộ máy phải phù hợp với khối lượng công việc và đặc thù hoạt động của từng tòa án.
Tổ chức hệ thống tòa án có 04 cấp, gồm: (1) Tòa án nhân dân tối cao; (2) Tòa án nhân dân cấp cao; (3) Tòa án nhân dân phúc thẩm; (4) Tòa án nhân dân sơ thẩm.
Tòa án nhân dân tối cao: cơ cấu tổ chức, nhiệm vụ vẫn giữ như hiện hành nhưng có kiện toàn, tổ chức lại bộ máy giúp việc cho phù hợp với chức năng, nhiệm vụ được giao.
Tòa án nhân dân cấp cao: có chức năng, nhiệm vụ chính yếu là giám đốc thẩm, tái thẩm các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân phúc thẩm, tòa án nhân dân sơ thẩm khu vực bị kháng nghị; xét xử phúc thẩm các vụ án của tòa án nhân dân sơ thẩm chuyên biệt bị kháng cáo, kháng nghị. Tòa án nhân dân cấp cao được tổ chức trên cơ sở các tòa án nhân dân cấp cao hiện tại, có bổ sung, điều chỉnh phù hợp với chức năng, nhiệm vụ được giao.
Tòa án nhân dân phúc thẩm: chức năng, nhiệm vụ chính yếu là xét xử phúc thẩm các vụ án của tòa án nhân dân sơ thẩm khu vực bị kháng cáo, kháng nghị. Tòa án nhân dân phúc thẩm được tổ chức tại 63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, trên cơ sở bổ sung, điều chỉnh một cách thích hợp các tòa án nhân dân cấp tỉnh hiện tại.
Tòa án nhân dân sơ thẩm: có hai hệ thống gồm tòa án nhân dân sơ thẩm khu vực và tòa án nhân dân sơ thẩm chuyên biệt.
Chức năng, nhiệm vụ của tòa án nhân dân sơ thẩm khu vực là xét xử sơ thẩm các loại án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động, hành chính và các loại vụ việc khác, trừ các vụ việc thuộc thẩm quyền xét xử của tòa án nhân dân sơ thẩm chuyên biệt. Tòa án nhân dân sơ thẩm khu vực được tổ chức tại một số huyện trên địa bàn từng tỉnh tùy thuộc vào quy mô dân số, kinh tế - xã hội, khối lượng công việc và địa giới hành chính. Tòa án nhân dân sơ thẩm khu vực bao gồm các tòa chuyên trách và tòa giản lược.
Chức năng, nhiệm vụ chính của tòa án nhân dân sơ thẩm chuyên biệt là xét xử sơ thẩm các loại vụ việc đặc thù theo từng lĩnh vực. Tòa án nhân dân sơ thẩm chuyên biệt gồm: tòa án nhân dân sơ thẩm sở hữu trí tuệ, tòa án nhân dân sơ thẩm hành chính, tòa án nhân dân sơ thẩm phá sản, tòa án nhân dân sơ thẩm môi trường và các tòa án chuyên biệt khác. Tòa án nhân dân sơ thẩm chuyên biệt được tổ chức theo địa hạt pháp lý nhiều tỉnh, thành phố, tùy thuộc vào khối lượng công việc của mỗi loại vụ việc.
* Đổi mới cơ chế quản trị nội bộ của tòa án
Đổi mới cơ chế quản trị nội bộ hiện tại của tòa án để nâng cao hiệu quả hoạt động. Nghiên cứu hình thành cơ quan hành chính chuyên trách để thực hiện các nhiệm vụ không liên quan trực tiếp quá trình xét xử, giải quyết vụ việc tại tòa án như tuyển dụng, bổ nhiệm, trang bị cơ sở vật chất, tiền lương...
Nghiên cứu thành lập Hội đồng Tư pháp quốc gia có nhiệm vụ: (1) Xây dựng chiến lược, kế hoạch hoạt động của tòa án; (2) Xây dựng chế độ chính sách; (3) Tuyển chọn, giám sát, khen thưởng, kỷ luật thẩm phán. Hội đồng Tư pháp quốc gia do Chủ tịch nước làm Chủ tịch Hội đồng, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao là Phó Chủ tịch Hội đồng và các thành viên được giới thiệu từ cơ quan tư pháp, cơ quan lập pháp, cơ quan hành pháp và các cơ quan, tổ chức khác.
Bốn là, đổi mới hoạt động của cơ quan tư pháp
* Xây dựng chế định tố tụng lấy xét xử là trung tâm
Phân định rõ hơn về thẩm quyền, trách nhiệm của từng thành viên tham gia hội đồng xét xử, vai trò tổ chức xét xử của thẩm phán chủ tọa phiên tòa; đổi mới việc xác định vị trí, vai trò của tòa án và các cơ quan khác tham gia vào quá trình tố tụng.
Hoàn thiện thủ tục tố tụng tranh tụng, bảo đảm quyền thu thập chứng cứ, bình đẳng trong quyền, nghĩa vụ thu thập chứng cứ, mọi chứng cứ phải được làm rõ tại phiên tòa, trách nhiệm trình bày chứng cứ, giải trình về chứng cứ tại phiên tòa của các chủ thể liên quan. Hoàn thiện quy định về chứng minh, chứng cứ ngẫu nhiên, quy tắc chứng minh, thủ tục loại trừ chứng cứ, phạm vi và việc xác định chứng cứ không hợp pháp.
Hoàn thiện cơ chế tố tụng tư pháp bảo vệ quyền con người: Xác định rõ 06 quyền của người bị buộc tội bao gồm: quyền được biết, được trình bày, được bào chữa, được đề nghị, được khiếu nại, tố cáo; luật sư bình đẳng với kiểm sát viên thực hành quyền công tố; bổ sung thêm cơ chế giám sát chống bức cung, nhục hình. Ban hành quy định pháp luật về quay phim, chụp ảnh tại phiên tòa. Nghiên cứu phân định một cách hợp lý và khoa học về địa vị pháp lý của chủ thể tố tụng. Bảo đảm quyền tranh tụng của các bên. Thực hiện quyền của bị cáo không buộc phải khai báo về tội trạng của mình. Bảo đảm tôn trọng quyền tự quyết, tự thỏa thuận của đương sự, người khởi kiện, bỏ việc tham gia của viện kiểm sát trong tố tụng dân sự. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế hòa giải, đối thoại để tách biệt với hoạt động tố tụng, tạo cơ chế thuận lợi và khuyến khích chuyển vụ án đang giải quyết trong thủ tục tố tụng sang hòa giải, đối thoại tại tòa án.
Nâng cao hiệu quả của thủ tục tố tụng bảo đảm khả thi, thống nhất, phù hợp: (1) Xây dựng cơ chế phân loại vụ án để tối ưu hóa việc phân bổ nguồn lực tư pháp: hoàn thiện quy định về chế độ khoan hồng đối với người nhận tội trong tố tụng hình sự; bổ sung thủ tục thỏa thuận nhận tội; bổ sung thủ tục đối với vụ án có giá trị tranh chấp nhỏ. Đổi mới, tăng cường áp dụng thủ tục rút gọn theo hướng giảm thủ tục, đơn giản hóa phương thức, tiêu chí và tài liệu, chứng cứ. (2) Xác định án lệ là nguồn luật trong tố tụng tư pháp. (3) Nghiên cứu, ban hành quy định về tố tụng điện tử tạo điều kiện thuận lợi cho người dân tiếp cận công lý. (4) Xây dựng Luật Tư pháp người chưa thành niên thống nhất và riêng biệt. (5) Xây dựng cơ chế tố tụng riêng biệt trong thi hành án hình sự đối với tha tù trước hạn có điều kiện, giảm án, miễn chấp hành án còn lại. (6) Xây dựng cơ chế hỗ trợ tạm ứng án phí, chi phí tố tụng của Nhà nước đối với những trường hợp đặc thù. (7) Nghiên cứu, ban hành quy định về tổ chức và hoạt động của tòa giản lược.
* Hoàn thiện cơ chế phân quyền nội bộ
Cải cách quy định về thụ lý vụ án; quy định cụ thể về thủ tục phân án ngẫu nhiên; ban hành quy định, điều kiện, phạm vi, thủ tục phân án vượt cấp trong một số trường hợp cần thiết; cải cách cơ chế hoạt động của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.
* Kiện toàn cơ chế thực thi quyền xét xử độc lập và nâng cao chất lượng xét xử
Xây dựng cơ chế phòng ngừa, xử lý việc can thiệp hoạt động xét xử. Quy định công khai và lưu hồ sơ vụ án mọi văn bản can thiệp vào quá trình tố tụng để các bên tra cứu, cấp có thẩm quyền xem xét, giải quyết. Đổi mới quy trình, tiêu chuẩn bổ nhiệm thẩm phán. Cải cách chế độ hội thẩm nhân dân. Quy định trách nhiệm tổ chức xét xử của chánh án, chánh tòa và các chức danh quản lý khác. Hoàn thiện cơ chế bảo đảm quyền uy tư pháp. Đối với các vụ án bị hủy, sửa đang trong quá trình tố tụng xem xét lại thì không thanh tra, kiểm tra, không báo cáo trước cơ quan dân cử, không xử lý trách nhiệm thẩm phán nếu đã tuân thủ đầy đủ quy trình tố tụng hoặc không vi phạm do lỗi chủ quan. Quy định rõ căn cứ truy cứu trách nhiệm hình sự đối với hành vi không thi hành bản án, quyết định của tòa án, coi thường quyền uy tư pháp.
Hoàn thiện cơ chế giám sát liêm chính tư pháp, theo hướng: (1) Cải tiến, tăng cường kiểm tra, giám sát; (2) Xây dựng chế độ xử lý trách nhiệm đối với sai phạm; (3) Ban hành quy định về quan hệ của thẩm phán đối với người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng, đặc biệt là luật sư; (4) Nghiên cứu, xây dựng Luật Thẩm phán.
Xây dựng cơ chế hữu hiệu xử lý đối với hành vi xâm phạm và cản trở các hoạt động tố tụng; quy định rõ chế tài (phạt, chịu chi phí tố tụng phát sinh, bồi thường) đối với các hành vi cản trở tố tụng, hành vi làm giả, hủy hoại chứng cứ, hồ sơ tài liệu (tố tụng giả), cố ý kéo dài tố tụng (khai báo, cung cấp tài liệu bất nhất), đeo bám tố tụng (tố tụng ác ý). Nghiên cứu bổ sung, hình sự hóa các hành vi chống lại tòa án (như vi phạm trật tự phiên tòa, nhục mạ, đe dọa, quấy nhiễu thẩm phán) - tội “Cản trở xét xử”.
Nghiên cứu, xây dựng hệ thống đánh giá chất lượng bản án, quyết định của tòa án, nâng cao chất lượng văn bản tố tụng. Quy phạm hóa thủ tục xử lý tài sản trong các vụ án, công khai thông tin về tài sản và thủ tục xử lý tài sản. Hoàn thiện chế độ ghi âm, ghi hình phiên tòa, quy định cụ thể số hóa hồ sơ vụ án, chế độ lưu trữ và quản lý hồ sơ.
* Xây dựng chế độ xét xử công khai, minh bạch
Tổ chức bộ phận hành chính tư pháp tại tất cả các tòa án; thực hiện quy chế một cửa liên thông và đơn giản hóa việc tiếp nhận, hướng dẫn giải quyết các yêu cầu của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
Công khai 07 nội dung trên Cổng thông tin điện tử, gồm: (1) Công khai hệ thống pháp luật, các Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, các án lệ, các văn bản hướng dẫn, các giải đáp pháp luật; (2) Công khai việc phân công cán bộ thụ lý án; (3) Công khai tiến độ thụ lý và giải quyết án; (4) Công khai quá trình xét xử tại phiên tòa (trừ những trường hợp pháp luật quy định cấm công khai); (5) Công khai kết quả xét xử; (6) Công khai quá trình và kết quả thi hành án; (7) Công khai quá trình và kết quả xét miễn, giảm án.
Tăng cường hoạt động trao đổi nghiệp vụ bằng phương thức trực tuyến; hệ thống cơ sở dữ liệu các hoạt động của tòa án liên thông với Cổng thông tin điện tử quốc gia.
Năm là, nâng cao chất lượng nhân lực của tòa án, đặc biệt là đội ngũ thẩm phán, thẩm tra viên, thư ký tòa án, bảo đảm số lượng cần thiết tối thiểu, có cơ cấu các chức danh tư pháp hợp lý, chế độ chính sách đặc thù
* Nâng cao chất lượng nhân lực của tòa án chuyên nghiệp và trí tuệ, bản lĩnh và nhân ái; tận tụy và công tâm
Đổi mới cơ cấu chức danh tư pháp, tiếp tục hoàn thiện chế định thẩm phán: (1) Đổi mới cơ cấu ngạch, bậc thẩm phán và việc phân bổ tại các cấp tòa án phù hợp yêu cầu của hoạt động xét xử, thực hiện quyền tư pháp. Thẩm phán thực hiện nhiệm vụ xét xử, nghiên cứu vụ việc để phục vụ xét xử, phát triển án lệ, hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật, giải quyết đơn và hòa giải. Thẩm phán bao gồm thẩm phán tối cao, thẩm phán và thẩm phán dự bị. Thẩm phán tối cao do Quốc hội phê chuẩn; thẩm phán do Chủ tịch nước bổ nhiệm, thẩm phán dự bị do Chánh án Tòa án nhân dân tối cao bổ nhiệm. Thẩm phán bao gồm nhiều ngạch, bậc. Thẩm phán dự bị là thẩm phán tập sự, thử thách trước khi bổ nhiệm thẩm phán. Mỗi ngạch thẩm phán có tiêu chuẩn riêng. (2) Thẩm phán các ngạch, bậc được bố trí ở tất cả các tòa án. (3) Thực hiện chế độ trách nhiệm tư pháp trọn đời của thẩm phán, nâng tuổi nghỉ hưu của thẩm phán. (4) Nâng cao đạo đức thẩm phán; tách bạch cấp bậc thẩm phán và cấp bậc hành chính, thực hiện cơ chế đề bạt kết hợp giữa ưu tiên tuyển chọn công chức ưu tú và nâng ngạch cấp bậc theo thời hạn quy định. (5) Hoàn thiện cơ chế xử lý vi phạm, cơ chế giám sát hoạt động của thẩm phán. (6) Cải cách chế độ hoạt động của ủy ban thẩm phán. (7) Xây dựng cơ chế kiểm soát bắt buộc đối với một số loại án cụ thể như chế độ truy xuất đối với án tương tự, báo cáo bắt buộc với loại án mới, giám sát của chánh án, chánh tòa với loại án trọng điểm.
Đổi mới và tăng cường công tác tuyển chọn, bổ nhiệm: mở rộng nguồn để bổ nhiệm thẩm phán; tiếp tục mở rộng nhiệm kỳ của thẩm phán, quy định chất lượng xét xử là cơ sở quan trọng trong việc nâng ngạch, bậc thẩm phán.
Đổi mới và tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng: tăng cường đào tạo ứng dụng công nghệ thông tin, chú trọng kỹ năng điều hành tranh tụng, kỹ năng áp dụng pháp luật và kỹ năng soạn thảo văn bản của thẩm phán. Nâng cao trình độ ngoại ngữ, đào tạo thẩm phán chuyên sâu về sở hữu trí tuệ, phá sản, môi trường, thương mại đầu tư...
* Bảo đảm số lượng biên chế và có cơ cấu hợp lý
Phân bổ số lượng thẩm phán, thẩm tra viên, thư ký tòa án theo nguyên tắc căn cứ vào (1) vị trí việc làm; (2) quy mô dân số, diện tích tự nhiên; (3) quy mô phát triển kinh tế - xã hội; (4) tình hình tranh chấp, vi phạm và tội phạm; (5) chức năng, nhiệm vụ của tòa án. Tăng cường lực lượng hỗ trợ xét xử, tập trung phần lớn nguồn nhân lực vào nhiệm vụ trực tiếp xử lý án.
* Bảo đảm chế độ chính sách phù hợp
Chế độ lương, chính sách đãi ngộ: xác định khung lương đối với từng chức danh; việc bổ nhiệm vào ngạch công chức phải gắn với vị trí việc làm và cơ cấu ngạch công chức. Thẩm phán là một nghề nghiệp đặc thù, tiến tới xây dựng chế độ về tiền lương và các phúc lợi xã hội, bảo hiểm nghề nghiệp, khen thưởng, vinh danh của thẩm phán riêng biệt.
Xây dựng cơ chế bảo vệ thẩm phán: bổ sung chính sách người có công đối với thẩm phán bị tổn hại sức khỏe, tính mạng vì lý do thực hiện công vụ; kiện toàn cơ chế thông báo, giải thích xử lý đối với những vu cáo nhằm vào thẩm phán.
Sáu là, tăng cường cơ sở vật chất, bảo đảm nguồn lực để xây dựng tòa án hiện đại, hoạt động hiệu quả
* Hoàn thiện thể chế: xây dựng các quy định chế độ, chính sách đặc thù đối với tòa án.
* Tăng cường cơ sở vật chất của hệ thống tòa án theo hướng đồng bộ, hiện đại, xứng đáng với vị thế của cơ quan tư pháp: xây dựng và triển khai đề án tổng thể về cải tạo, mở rộng trụ sở và trang bị nội thất phòng xử án bảo đảm khang trang, hiện đại, đáp ứng yêu cầu của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
Xây dựng hệ thống tài chính chuyên biệt, bảo đảm nguồn lực tài chính đáp ứng yêu cầu công tác của tòa án
Ngân sách hoạt động tư pháp do Nhà nước bảo đảm. Đổi mới cơ chế phân bổ ngân sách cho tòa án: nghiên cứu, ban hành quy định Tòa án nhân dân tối cao có trách nhiệm đề xuất dự toán ngân sách hằng năm của toàn hệ thống, trình Quốc hội xem xét, thông qua. Toàn bộ ngân sách hoạt động của hệ thống tòa án do Quốc hội phân bổ và Tòa án nhân dân tối cao chịu trách nhiệm phân bổ cho tòa án các cấp. Quy định định mức phân bổ ngân sách hoạt động thường xuyên cho các tòa án nhân dân theo hướng mỗi cấp, mỗi loại tòa án có một định mức riêng. Quy định riêng về kinh phí chi đặc thù bên cạnh định mức chi thường xuyên.
Xây dựng cơ sở pháp lý về cơ chế sử dụng nguồn ngân sách địa phương hỗ trợ và nguồn kinh phí hợp pháp khác.
Bảy là, xây dựng tòa án điện tử
Bản chất của tòa án điện tử là chuyển một phần hoạt động của tòa án từ không gian thực lên không gian số. Định hướng xây dựng tòa án điện tử tại Việt Nam, cụ thể như sau: (1) Xây dựng tòa án điện tử hướng tới thực thi và nâng cao năng lực quản trị tòa án trên nền tảng số; (2) Xây dựng tòa án điện tử cung cấp các dịch vụ tư pháp công để phục vụ người dân tốt hơn; (3) Xây dựng tòa án điện tử hỗ trợ thẩm phán nâng cao hiệu quả và chất lượng hoạt động; (4) Xây dựng tòa án điện tử để triển khai các hoạt động tố tụng trực tuyến; (5) Xây dựng tòa án điện tử góp phần tăng cường tính công khai, minh bạch trong hoạt động của tòa án; (6) Xây dựng tòa án điện tử để kết nối với các nền tảng số khác.
Tám là, tăng cường hợp tác quốc tế
Trong thời gian tới, hệ thống tòa án cần tiếp tục thực hiện các giải pháp nhằm tăng cường và nâng cao hiệu quả của hoạt động hợp tác quốc tế trên cả bình diện đa phương và song phương trong các lĩnh vực cụ thể như sau: củng cố, kiện toàn hệ thống pháp luật về hợp tác quốc tế; hoàn thiện công tác xây dựng pháp luật và phát triển án lệ; xây dựng, đào tạo đội ngũ cán bộ chuyên nghiệp, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế; tăng cường trao đổi, tham khảo kinh nghiệm quốc tế trong lĩnh vực tư pháp; đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong giải quyết, xét xử các vụ việc dân sự, vụ án hình sự, hành chính có yếu tố nước ngoài, xây dựng tòa án điện tử; nâng cao vai trò của tòa án trong việc thực hiện các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.
Chín là, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với cơ quan tư pháp và tiến trình cải cách tư pháp
Nguyên tắc chung: Đảng lãnh đạo cơ quan tư pháp và tiến trình cải cách tư pháp. Đây là giải pháp đặc biệt quan trọng bảo đảm sự thành công của cải cách tư pháp tại tòa án nhân dân. Đảng lãnh đạo về chính trị, tư tưởng và tổ chức thông qua việc đề ra chiến lược, chủ trương, chính sách và công tác cán bộ. Đảng lãnh đạo nhưng bảo đảm tôn trọng nguyên tắc độc lập và chỉ tuân theo pháp luật của quyền tư pháp, không can thiệp vào quá trình tố tụng giải quyết vụ việc cụ thể làm ảnh hưởng đến công bằng tư pháp.
Mô hình tổ chức đảng: Tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 49/NQ-TW và Kết luận số 79/KL-TW của Bộ Chính trị về thành lập Đảng bộ Tòa án nhân dân tối cao. Theo đó, Đảng bộ Tòa án nhân dân tối cao gồm các tổ chức đảng của Tòa án nhân dân tối cao, các tòa án nhân dân cấp cao và các tòa án nhân dân sơ thẩm chuyên biệt. Ban Cán sự đảng Tòa án nhân dân tối cao chịu sự lãnh đạo trực tiếp của Bộ Chính trị, Ban Bí thư. Thành lập đảng bộ tòa án nhân dân phúc thẩm trực thuộc đảng bộ tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Theo đó, Đảng bộ tòa án nhân dân phúc thẩm gồm các tổ chức đảng của tòa án nhân dân phúc thẩm và các tòa án nhân dân sơ thẩm khu vực.
Nhân sự của các cấp ủy đảng:
Bố trí chánh án các cấp tham gia cấp ủy cùng cấp với cương vị cao hơn hiện tại và phù hợp với từng địa bàn. Theo đó, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư. Chánh án các tòa án nhân dân phúc thẩm tại thành phố trực thuộc Trung ương và các tỉnh có quy mô dân số đông, trung tâm phát triển kinh tế - xã hội, văn hóa của đất nước là ủy viên ban thường vụ cấp ủy tỉnh; chánh án tòa án nhân dân phúc thẩm các tỉnh còn lại là ủy viên ban chấp hành đảng bộ tỉnh.
Chánh án tòa án nhân dân cấp cao và chánh án tòa án nhân dân sơ thẩm chuyên biệt là ủy viên Ban Chấp hành Đảng bộ Tòa án nhân dân tối cao. Chánh án tòa án nhân dân sơ thẩm khu vực là ủy viên ban chấp hành đảng bộ tòa án nhân dân phúc thẩm. Việc bố trí nhân sự như vậy cần được Bộ Chính trị quy định tương tự như đối với nhân sự cấp ủy của Quân ủy Trung ương và Đảng ủy Công an Trung ương.
Định hướng cải cách tư pháp cần phải được tiến hành với quyết tâm chính trị cao nhất, xác định rõ nội dung trọng tâm, trọng điểm, có chương trình, kế hoạch và lộ trình cải cách tư pháp phù hợp; xác định rõ thẩm quyền, trách nhiệm của các cơ quan liên quan. Thực hiện được những nhiệm vụ cải cách tư pháp nói trên sẽ là một cuộc cách mạng làm biến đổi nền tư pháp nước nhà, nâng cao được hiệu lực, hiệu quả hoạt động để tòa án hoàn thành sứ mệnh bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của tổ chức, cá nhân.
__________________
(1) Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02-01-2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới; Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24-5-2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020; Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02-6-2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 và các kết luận có liên quan; Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng; Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII Đảng.
(2) Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013; Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014; Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Bộ luật Tố tụng dân sự và Luật Tố tụng hành chính năm 2015, Luật Hòa giải, đối thoại tại tòa án năm 2020; Nghị quyết số 33/2021/QH15 ngày 12-11-2021 của Quốc hội về Tổ chức phiên tòa trực tuyến.
(3) Khoản 3 Điều 102 Hiến pháp năm 2013.
(4) Tính đến ngày 30-6-2021, tổng số biên chế tòa án nhân dân các cấp có 13.573 người, còn thiếu 1.664 người so với biên chế được giao. Tính đến ngày 31-7-2022, hệ thống tòa án có 6.381 thẩm phán, so với chỉ tiêu của Ủy ban Thường vụ Quốc hội phân bổ, đội ngũ thẩm phán toàn hệ thống chỉ còn thiếu 403 thẩm phán các cấp.
(5) Như chủ trương tổ chức tòa án theo thẩm quyền xét xử, không phụ thuộc đơn vị hành chính, cơ chế để bảo đảm tính độc lập của tòa án.
PGS, TS NGUYỄN HÒA BÌNH
Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng,
Chánh án Tòa án nhân dân tối cao