03/03/2025 lúc 23:40 (GMT+7)
Breaking News

Để nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp Nhà nước

Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 07/CT-TTg ngày 22/2/2024 về đổi mới quản trị, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh và thúc đẩy mạnh mẽ đầu tư phát triển của các Tập đoàn, Tổng công ty, doanh nghiệp nhà nước. Theo đó, cần tiếp tục tập trung tháo gỡ thể chế, cơ chế chính sách; tăng cường phân cấp, phân quyền mạnh mẽ hơn, nâng cao tinh thần tự lực, tự cường, tự chủ, trách nhiệm của doanh nghiệp…

Ảnh minh họa - TL

Vai trò quan trọng của DNNN

Không thể phủ nhận, trong thành công chung của quá trình phát triển kinh tế - xã hội đất nước, có sự đóng góp tích cực, quan trọng của khối doanh nghiệp nhà nước (DNNN). Tổng kết năm 2024 cho thấy, doanh thu của khối ước đạt 2.030.572 tỉ đồng (bằng 120% kế hoạch năm và bằng 107% so với cùng kỳ); Lợi nhuận trước thuế ước đạt 111.692 tỉ đồng (bằng 158% kế hoạch năm và bằng 156% so với cùng kỳ); Giá trị nộp Ngân sách Nhà nước ước đạt 206.206 tỉ đồng (bằng 153% kế hoạch năm và bằng 105% so với cùng kỳ); đóng góp cho nền kinh tế đất nước khoảng 10% GDP… Những con số đó là minh chứng cho sự tăng trưởng cả về doanh thu và lợi nhuận của các tập đoàn, tổng công ty trong năm qua.

Theo báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, cả nước hiện có gần 680 DNNN (trong đó, có 478 doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ, chiếm gần 6% số doanh nghiệp cả nước và 198 doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ cổ phần chi phối, chiếm gần 2,4%), nắm một lượng tài sản rất lớn, tới hơn 3,8 triệu tỷ đồng (trong đó, vốn Nhà nước đầu tư gần 1,7 triệu tỷ đồng; riêng 478 doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ có tổng vốn trên 1,55 triệu tỷ đồng, chiếm khoảng 7% tổng tài sản và 10% vốn chủ sở hữu, chiếm khoảng 25,78% tổng vốn sản xuất, kinh doanh và 23,4% giá trị tài sản cố định và đầu tư tài chính dài hạn của toàn bộ doanh nghiệp cả nước).

DNNN cũng ngày càng thể hiện rõ vai trò dẫn dắt, chi phối, chủ đạo trong những ngành, lĩnh vực quan trọng, thiết yếu của nền kinh tế; góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế, đóng góp thiết thực vào xây dựng, phát triển KTXH và bảo vệ tổ quốc. Bên cạnh đó, hoạt động đầu tư của DNNN trong các ngành, lĩnh vực, địa bàn then chốt, quan trọng của nền kinh tế đã giúp giảm bớt gánh nặng từ ngân sách nhà nước trong thực hiện các dự án đầu tư kết cấu hạ tầng quan trọng, qua đó, góp phần thực hiện tiến trình cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng…

Khó khăn, hạn chế

Tuy đạt được một số kết quả quan trọng, nhưng thực tế cũng cho thấy, hoạt động và đóng góp của khối DNNN trong thời gian qua vẫn chưa tương xứng. Nắm giữ nguồn lực lớn về vốn, tài sản, nhân sự nhưng vai trò và sự đóng góp của khối DNNN vào nền kinh tế đất nước nói chung lại chưa tương xứng về quy mô và tỷ lệ đóng góp. Chưa có các dự án đầu tư quy mô đủ lớn tạo động lực bứt phá, sức lan tỏa, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế và DN Việt Nam. Năng lực cạnh tranh, ứng dụng khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo còn hạn chế. Các DNNN chưa chú trọng đúng mức đến chất lượng, đổi mới quản trị còn chậm, cơ chế đãi ngộ, xử lý trách nhiệm vẫn theo quy định như công chức Nhà nước nên không tạo được động lực khuyến khích cán bộ dám chủ động, đổi mới. Đáng chú ý, các dự án đầu tư mới cũng không được chú trọng trong thời gian qua nên có rất ít công trình, dự án quy mô lớn được khởi công. Riêng đối với 19 tập đoàn tổng công ty thuộc Ủy ban Quản lý vốn nhà nước và Viettel, nơi nắm giữ đến gần 90% nguồn lực của khu vực DNNN, chỉ triển khai thực hiện 3 dự án đầu tư nhóm A…

Bên cạnh đó, hoạt động của khối DNNN cũng có một số khó khăn, hạn chế. Trong đó, nguồn vốn hạn chế cũng là cái khó lớn của các DN. Vai trò dẫn dắt, tạo động lực đối với nền kinh tế và năng lực cạnh tranh, ứng dụng khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo của các DNNN quy mô lớn vẫn còn hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu là lực lượng nòng cốt của kinh tế Nhà nước. Việc tái cơ cấu toàn diện DNNN mới chủ yếu tập trung sắp xếp, cổ phần hóa, thoái vốn để có cơ cấu hợp lý hơn, mà chưa chú trọng thực hiện các định hướng, giải pháp đột phá về khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, nguồn nhân lực chất lượng cao và một chiến lược kinh doanh dài hạn có tính khả thi cao.

Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của DNNN

Để DNNN thực sự trở thành lực lượng vật chất quan trọng của nền kinh tế, dẫn dắt các thành phần kinh tế khác, chúng ta cần tập trung đánh giá tình hình, những thành tựu, đóng góp của DNNN, cũng như những tồn tại, hạn chế, đồng thời phân tích nguyên nhân chủ quan, khách quan, làm rõ những khó khăn, vướng mắc, những điểm nghẽn trong cơ chế, chính sách đối với khu vực doanh nghiệp này, những tồn tại hạn chế trong chính doanh nghiệp, những khó khăn nào xuất phát từ thể chế chính sách, những khó khăn nào xuất phát từ khâu triển khai thực hiện để, đề xuất rõ cấp nào, bộ nào cần xử lý các vướng mắc đó, để từ đó đưa ra các định hướng, giải pháp đổi mới, nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực tại các DNNN.

Trong thời kỳ cách mạng KHKT phát triển rất nhanh như hiện nay, thì đổi mới sáng tạo và thúc đẩy phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ, nhất là công nghệ cao, thân thiện môi trường, trở thành động lực quan trọng hàng đầu đối với các doanh nghiệp nói chung, nhất là với DNNN nói riêng.

Tại Hội nghị Thường trực Chính phủ làm việc với DNNN nhằm đưa ra các giải pháp thúc đẩy SXKD và đầu tư phát triển (ngày 14/9/2023), Thủ tướng Phạm Minh Chính đã nêu rõ 12 nhiệm vụ trọng tâm để nâng cao hiệu quả hoạt động, đổi mới khu vực DNNN, thúc đẩy sản xuất kinh doanh và đầu tư phát triển. Cụ thể:

Thứ nhất, tiếp tục hoàn thiện thể chế, hệ thống pháp luật gồm luật, nghị định, thông tư của các cấp để tháo gõ khó khăn, huy động nguồn lực, phát huy nguồn lực Nhà nước dẫn dắt mọi nguồn lực xã hội cho đầu tư phát triển. Hoàn thiện thể chế phải trên tinh thần phân cấp, phân quyền, đơn giản hóa thủ tục hành chính, góp phần tháo gỡ khó khăn, giảm chi phí đầu vào, chi phí tuân thủ cho doanh nghiệp.

Thứ hai, các DNNN phải tăng cường đóng góp cho xây dựng chương trình, kế hoạch để thực hiện các mục tiêu theo Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, chiến lược 10 năm, kế hoạch 5 năm; đồng thời căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình để cụ thể hóa bằng các đề án, dự án cụ thể.

Thứ ba, tái cơ cấu DNNN sát tình hình thực tế, không chỉ tập trung tái có cấu vốn, mà phải nâng cao năng suất lao động, hiệu quả sử dụng vốn, nâng đời sống vật chất và tinh thần của người lao động.

Thứ tư, các DNNN phải tham gia tích cực, hiệu quả hơn nữa vào các chương trình, dự án lớn của Nhà nước, đặc biệt là 3 đột phá chiến lược về thể chế, hạ tầng, nhân lực, các chương trình, dự án lớn đang triển khai như hệ thống cao tốc, chuyển đổi xanh, ứng phó biến đổi khí hậu, chuyển đổi số, chương trình xây dựng 1 triệu căn hộ nhà ở xã hội, nhà ở công nhân, phát triển 1 triệu ha lúa chất lượng cao ở ĐBSCL....

Thứ năm, các cấp chính quyền thực hiện cơ chế định kỳ 3 tháng sẽ tổ chức gặp gỡ, đối thoại để các DNNN kịp thời chia sẻ các khó khăn, vướng mắc, tâm tư, nguyện vọng, với tinh thần hết sức cầu thị, hết sức lắng nghe, hết sức trách nhiệm, hết sức dân chủ.

Thứ sáu, các DNNN góp phần xây dựng và hoàn thiện thể chế, cơ chế, chính sách, các ưu đãi cần thiết với DNNN để phát triển nhanh, bền vững.

Thứ bảy, đề xuất những cơ chế, chính sách khuyến khích, bảo vệ, tạo động lực, truyền cảm hứng cho những người dám nghĩ, dám làm, dám đột phá, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung, tinh thần xây dựng chính sách là không cầu toàn, không nóng vội.

Thứ tám, đề cao đạo đức doanh nhân và trách nhiệm với xã hội, nhất là với những vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, hải đảo, những người yếu thế, khó khăn, những người gặp hoạn nạn...; chăm lo cải thiện đời sống công nhân, người lao động.

Thứ chín, các DNNN cùng nhau, cùng các cơ quan Nhà nước đẩy mạnh xây dựng thương hiệu doanh nghiệp, ngành hàng, góp phần xây dựng thương hiệu quốc gia.

Thứ mười, khai thác hiệu quả các hiệp định thương mại tự do (FTA) và quan hệ chính trị, ngoại giao rất tốt đẹp giữa Việt Nam với các nước trên thế giới, nhất là Trung Quốc, Mỹ, EU, Hàn Quốc, Nhật Bản, các nước ASEAN...

Mười một, các DNNN cùng nhau chia sẻ khó khăn, kinh nghiệm, hỗ trợ, giúp đỡ khi gặp khó khăn thách thức, đoàn kết, thống nhất nhưng cạnh tranh lành mạnh, đúng luật pháp.

Mười hai, tập trung đào tạo nguồn nhân lực trong các ngành mới nổi như chuyển đổi số, ứng phó biến đổi khí hậu, tăng trưởng xanh, kinh tế tuần hoàn, kinh tế chia sẻ... góp phần đào tạo nhân lực cho doanh nghiệp, các địa phương và cả nước.

Cũng xuất phát từ thực tiễn, Bộ KH&ĐT đã đề xuất một số định hướng nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của DNNN; bao gồm:

1. Nhiệm vụ trọng tâm trong giai đoạn tới là tăng đầu tư, tăng đổi mới sáng tạo và áp dụng khoa học công nghệ, nâng cao hiệu quả hoạt động để DNNN thực hiện vị trí, vai trò mở đường, dẫn dắt; cùng với khu vực tư nhân trong nước xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, có sức chống chịu tốt hướng tới mục tiêu trở thành quốc gia hùng cường, thịnh vượng vào năm 2045 như Đại hội XIII đã xác định.

2. Cần gắn phát triển DNNN với thực hiện chiến lược phát triển ngành, lĩnh vực của nền kinh tế. Xác định rõ ngành, lĩnh vực then chốt cần có sự hiện diện của DNNN phù hợp với định hướng phát triển bền vững của đất nước (như năng lượng tái tạo, công nghiệp công nghệ cao, kết cấu hạ tầng quan trọng của quốc gia…).

3. Cần thay đổi nhận thức, quan điểm về cổ phần hóa, thoái vốn đầu tư nhà nước tại doanh nghiệp. Mục tiêu của cổ phần hóa, thoái vốn không phải là rút vốn nhà nước ra khỏi DNNN, thu hẹp phạm vi, quy mô của khu vực DNNN, mà tái cơ cấu lại danh mục đầu tư, nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả và giá trị đầu tư của Nhà nước tại doanh nghiệp nói chung và của từng DNNN nói riêng.

4. Xây dựng và phát triển hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia đồng bộ về DNNN, tài sản Nhà nước để đánh giá, theo dõi và giám sát; qua đó, có định hướng phù hợp nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh của DNNN.

5. Các bộ, ngành, địa phương, đặc biệt là Ủy ban Quản lý vốn Nhà nước tại doanh nghiệp cần phải thay đổi cách thức làm việc, chủ động thực hiện đầy đủ và hiệu lực các quyền chủ sở hữu tại doanh nghiệp theo quy định pháp luật và thông lệ quốc tế; không can thiệp vào quá trình điều hành, quản trị kinh doanh tại doanh nghiệp.

6. Hoàn thiện công tác quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước thông qua việc phân công một Bộ làm đầu mối quản lý nhà nước thực hiện giám sát hoạt động của cơ quan đại diện chủ sở hữu, xây dựng định hướng phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước. Cùng với đó là xây dựng cơ chế giám sát và nâng cao hiệu quả giám sát hơn theo các phương thức; nghiên cứu cơ chế, chính sách tiền lương gắn với năng suất lao động và hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, nhất là đối với quản lý cấp cao của doanh nghiệp.

Chỉ có triển khai thực hiện một cách tích cực những nhiệm vụ và giải pháp nêu trên, mới nâng cao được hiệu quả hoạt động và vai trò nòng cốt của DNNN trong giai đoạn mới của đất nước./.

Ths. Nguyễn Tuấn Lam

...