Cựu chiến binh, thương binh ¾, Nguyễn Hải Dương, sinh năm 1948, quê ở xóm 15, xã Phúc Thọ, Nghi Lộc, Nghệ An. Năm 1968 ông đang làm tiểu đội trưởng dân quân của xã.
Hưởng ứng lời kêu gọi của Đảng ông xung phong lên đường nhập ngũ. Lúc đó cha (ông Nguyễn Hữu Tao) đang đi bảo đảm giao thông ở chiến trường, chú ruột (ông Nguyễn Hữu Võ) vừa hy sinh tại mặt trận Quảng Bình; mẹ ốm đau thường xuyên; các em sau còn nhỏ. Ông Dương về huấn luyện 3 tháng ở Đoàn 22, đóng quân tại Thanh Hoá. Sau đó được bổ sung vào Đại đội 20 trinh sát, Trung đoàn 66, Sư đoàn 304B. Năm 1969, đơn vị hành quân vào chiến trường Quảng Trị. Có nhiệm vụ tiền nhập vào các căn cứ địch để nắm tình hình, vẽ sơ đồ và dẫn bộ binh vào chiến đấu. Có khi đặt đài quan sát tìm hiểu quy luật hoạt động của địch để Trung đoàn vạch phương án tác chiến. Ông và đồng đội đã cung cấp nhiều thông tin quan trọng góp phần đánh thắng nhiều trận lớn nhỏ. Năm năm làm lính trinh sát có lúc ông phải nhịn đói, chịu khát, ăn cháo rau rừng để sống qua ngày nhưng không lúc nào ông quản ngại hy sinh, gian khổ. Đặc biệt, trong 81 ngày đêm chiến đấu ở thành cổ Quảng Trị, mặc dù mưa bom, bão đạn nhưng toán trinh sát của ông hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Đến nay, hơn 70 tuổi đời, trong trí nhớ ông vẫn còn in nguyên những lần bị thương thập tử nhất sinh nhưng khi vết thương chưa lành ông đã viết đơn xin trở lại chiến trường.

Ông Dương kể: Tháng 5 năm 1970, ông cùng toán trinh sát gồm 7 đồng chí đang làm nhiệm vụ ở cao điểm 365 (động Cô Tiên, phía Tây Nam Quảng Trị) nhận được điện của Trung đoàn cho biết: “Địch khả năng sẽ đổ bộ 1 Đại đội H báo vào cao điểm này. Các đồng chí tiếp tục bám đài, bám trận địa nắm chắc tình hình”. Anh em ra sức xây dựng trận địa, đào hầm hào, công sự. 10h ngày 7/5/1970 địch dùng máy bay trực thăng HU1A thả bom và bắn phá cao điểm 365. Đến hơn 11h chúng đổ quân xuống buộc chúng tôi phải nổ súng chiến đấu. Trong trận đánh này ông và đồng đội tiêu diệt 20 tên, bắn cháy một máy bay trực thăng. Để đảm bảo an toàn toán trinh sát chuyển sang cao điểm 325. Ông rút sau cùng. Vừa rời công sự khoảng 5m thì địch xông đến. Ông nghĩ, không để địch bắt sống. Một tên xông vào nắm tay trái, ông nhanh như sóc quay người dùng tay phải đánh mạnh vào mạn sườn trái tên địch ngã khuỵu xuống đất, sau đó ông nhảy xuống vực sâu, địch dùng súng bắn đuổi, một viên đạn trúng đùi trái. Khi đồng đội quay lại thấy ông đang nằm dưới đó và đưa vào bệnh xá điều trị. Sau khi ra viện chỉ huy đơn vị cho ông về tuyến sau. Nhưng ông một mực xin tham gia chiến đấu. Và được trở về đơn vị cũ công tác.
Tháng 5 năm 1972, Quảng Trị được giải phóng địch điên cuồng tái chiếm Thành cổ. Toán trinh sát của ông gồm 5 đồng chí được giao nhiệm vụ đi thám thính tình hình phía Bắc cầu Mỹ Chánh bị máy bay ném bom. Một đồng đội hy sinh, ông Dương bị đạn đâm xuyên bụng làm đứt ruột tiểu tràng, xuyên phổi, một mảnh đạn xuyên vào mông tổn thương dây thần kinh hông to. Do mất nhiều máu ông ngất lịm, được đồng đội kịp thời đưa về tuyến sau cấp cứu. Nhấp ly trà nóng, ông Dương bộc bạch: Khi mổ xong vết thương lớn các bác sỹ yêu cầu hạn chế uống nước sợ máu bị loãng và dễ đứt chỉ. Nhiều đêm khát nước tôi dui một lỗ ở tăng võng, đêm xuống sương đọng thành giọt nước ông ghé miệng hứng cho đỡ khát”.
Điều trị tại Quân y viện 4 tháng ông được xuất viện. Nhưng vì sức khoẻ yếu đơn vị cho ông đi điều dưỡng phục hồi sức khoẻ. Ông viết đơn gửi lên Trung đoàn xin tham gia chiến đấu. Một hôm trực ban xuống gọi ông lên gặp Cơ quan chính trị. Vừa bước vào ông chủ nhiệm chính trị đến bắt tay, hỏi thăm sức khoẻ và nói. “Đơn vị rất cảm động và biểu dương tinh thần chiến đấu của Dương. Lúc này, đất nước đang cần những tấm gương dũng cảm như em. Tuy nhiên, nếu để Dương ra chiến trường sức khoẻ không đảm bảo, cấp trên đã nghiên cứu kỹ bệnh án và cho em đi điều dưỡng. Lúc nào sức khoẻ tốt chúng tôi sẽ cho đồng chí tham gia chiến đấu cùng đồng đội. Thế Dương nhé! Trở về phòng mà nước mắt ông giàn dụa”.
Ngày ông về Đoàn điều dưỡng 200, Quân khu 4 (đóng ở làng Mó huyện Quỳ Hợp, Nghệ An) đồng đội chia tay lưu luyến. Một hôm ông và các thương binh khác vừa đi nhận thuốc về thì nghe có tiếng máy bay đang đến gần. Ông và những người khác chạy xuống hầm trú ẩn. Khi vừa ngồi xuống ông nghe có tiếng khóc trên mặt đất. Ông vội chạy lên thấy một em bé khoảng 4 tuổi đang đứng giữa sân khóc to, ông lao đến ôm cháu bé rồi nằm sạp xuống đất và lấy hết sức trườn vào hầm. Bất ngờ một qủa bom bi phát nổ, ông bị thương ở phần đầu còn em bé không can gì. Sau khi máy bay rút đi ông được các y, bác sỹ kịp thời cứu chữa. Sức khoẻ yếu nay càng yếu thêm. Nhiều đêm ông suy nghĩ, bây giờ đồng đội đang chiến đấu tại các chiến trường không lẽ mình lại nằm ở đây. Nhưng nếu tình hình sức khoẻ thế này về đơn vị cũng không được tham gia chiến đấu. Thôi. Mình cứ viết đơn gửi cho đơn vị xem sao. Đợi mãi không thấy hồi âm. Tháng 12 năm 1972, ông được cấp trên tạo điều kiện cho chuyển ngành nhưng vì vết thương nặng ông xếp thương binh hạng 2/4. Lúc đó quy định nếu là thương binh hạng 2/4 thì không được chuyển ngành mà phải nghỉ chế độ. Lúc này, các em đang tuổi ăn tuổi lớn, nếu về quê thì biết làm gì mà sống. Một hôm, ông lên Trung tâm điều dưỡng xin sửa lại giấy chứng nhận thương binh từ 2/4 xuống 3/4. Từ đó, ông được chuyển về công tác ở ngành Ngân hàng Nhà nước. Mặc dù chân trái bị teo, đi khập khiểng nhưng khi giao nhiệm vụ gì ông đều nhanh nhẹn, tháo vát và tích cực học tập chuyên môn nghiệp vụ. Ngày ông làm việc tối đến mượn sách ôn văn hoá và ông đã thi đậu rồi theo học Trung cấp kế toán ngân hàng. Gần 40 năm công tác dù trên cương vị nào ông đều hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Trong chiến đấu ông được tặng thưởng Huân chương chiến công hạng 3. Huân chương vì sự nghiệp ngành ngân hàng và nhiều bằng khen, giấy khen của tỉnh và Trung ương. 5 đứa con của ông đều tốt nghiệp đại học, có công ăn việc làm ổn định, trong đó có hai đứa theo nghề của ông. Nhiều năm liền đạt gia đình văn hoá cấp huyện. Nay về nghỉ hưu ở địa phương, sức khoẻ có phần yếu đi, vết thương hay tái phát nhưng nhiều năm nay ông vẫn làm Chi hội trưởng CCB của địa phương.
Ông Nguyễn Hải Dương vui vầy bên cháu.



