Để hội nhập kinh tế quốc tế hiệu quả dưới tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, đòi hỏi các doanh nghiệp của Việt Nam không những cần có khả năng khai thác và sử dụng hiệu quả các nguồn lực, mà còn phải nhanh nhạy trong việc phát triển, ứng dụng các tiến bộ khoa học và công nghệ cao, đổi mới sáng tạo, gắn chặt chiến lược sản xuất, kinh doanh với hoạt động nghiên cứu khoa học và đội ngũ các nhà khoa học.
Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính tham quan các gian hàng tại Triển lãm quốc tế Đổi mới sáng tạo Việt Nam năm 2023 (VIIE 2023)_Ảnh: TTXVN
Các điều kiện bảo đảm để doanh nghiệp đẩy mạnh ứng dụng khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo
Nghị quyết số 20-NQ/TW, ngày 1-11-2012, của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI, “Về phát triển khoa học và công nghệ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa” khẳng định, phát triển mạnh mẽ khoa học và công nghệ, làm cho khoa học và công nghệ thực sự là động lực quan trọng nhất để phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, kinh tế tri thức, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đề ra định hướng chiến lược, đổi mới mạnh mẽ mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức canh tranh của nền kinh tế. Chuyển mạnh nền kinh tế sang mô hình tăng trưởng dựa trên tăng năng suất, tiến bộ khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo, nhân lực chất lượng cao, sử dụng tiết kiệm, hiệu quả các nguồn lực; cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh; phát triển các ngành, lĩnh vực, doanh nghiệp trên nền tảng ứng dụng mạnh mẽ các thành tựu của khoa học và công nghệ; tham gia có hiệu quả vào mạng lưới sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu(1). Tiếp tục thực hiện nhất quán chủ trương khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu và là một đột phá chiến lược, động lực then chốt để phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế(2)…
Đồng thời, nhiều chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước ta cũng nhất quán khẳng định rõ vai trò của doanh nghiệp là động lực chính của nền kinh tế - xã hội, yêu cầu nâng cao sức cạnh tranh, quy mô, hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp theo hướng phát triển bền vững. Điều này đặt ra yêu cầu các doanh nghiêp cần quan tâm thúc đẩy đổi mới sáng tạo trên nền tảng ứng dụng mạnh mẽ thành tựu của khoa học và công nghệ, tham gia có hiệu quả vào mạng lưới sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu.
Ở góc độ vĩ mô, cần có môi trường để doanh nghiệp và các lực lượng trong hệ thống chính trị huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực và tiềm năng, thế mạnh của mình góp phần phát triển nền kinh tế nhanh và bền vững. Điều kiện tiên quyết là cần tăng cường ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, tập trung tháo gỡ khó khăn cho sản xuất, kinh doanh, bảo đảm duy trì tăng trưởng hợp lý; đẩy mạnh thực hiện ba đột phá chiến lược, nhất là đẩy mạnh việc hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tập trung các nguồn lực phát triển nhanh hơn kết cấu hạ tầng then chốt, ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ trong sản xuất, kinh doanh. Cần chú trọng bảo hộ quyền tài sản, quyền sở hữu trí tuệ và thực thi các chính sách về cạnh tranh, bảo đảm cạnh tranh lành mạnh. Tạo điều kiện thực hiện liên kết giữa các doanh nghiệp, tăng cường hợp tác công - tư, hình thành các doanh nghiệp đầu tàu tạo nên chuỗi giá trị bền vững và chuỗi cung ứng hiệu quả; sửa chữa những thiếu sót, khiếm khuyết trên thị trường các yếu tố sản xuất, đặc biệt là thị trường khoa học và công nghệ… đang được đặt ra ngày càng cấp bách.
Về phía doanh nghiệp, nỗ lực của chính bản thân cộng đồng doanh nghiệp vẫn là yếu tố mang tính chất quyết định để có thể nâng cao được năng lực cạnh tranh và khắc phục những hạn chế do nội lực, trình độ phát triển hay những yếu tố tác động bên ngoài khác. Các doanh nghiệp cần tập trung cải thiện năng suất lao động, hội nhập tốt hơn với nền kinh tế quốc tế, tạo cơ sở cho tăng trưởng bền vững và phát triển lâu dài. Muốn vậy, doanh nghiệp cần tích cực đầu tư cho nghiên cứu phát triển, nâng cao năng lực công nghệ và nguồn nhân lực chất lượng cao. Đây là vấn đề cốt yếu, quan trọng hàng đầu để có thể nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trong điều kiện hiện nay.
Phát triển khoa học và công nghệ phải gắn chặt với đổi mới sáng tạo. Theo đó, cần phát triển hệ thống sáng tạo quốc gia, hình thành hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo, lấy doanh nghiệp làm trung tâm ứng dụng công nghệ và phát triển sản phẩm, các trường đại học và viện nghiên cứu là chủ thể nghiên cứu và phát triển; tạo cơ chế liên kết chặt chẽ, hữu cơ giữa các cơ sở nghiên cứu với các doanh nghiệp trên cơ sở chia sẻ về trách nhiệm và lợi ích tương hỗ.
Văn kiện Đại hội XIII của Đảng cũng lần đầu xác định đầy đủ vai trò của khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo gắn với thể chế, chính sách và vai trò trung tâm của doanh nghiệp, các điều kiện bảo đảm để doanh nghiệp thúc đẩy ứng dụng khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo, như quan điểm về tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, đồng bộ thể chế, chính sách ứng dụng, phát triển khoa học và công nghệ; nâng cao năng lực hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia, cơ cấu lại các chương trình nghiên cứu khoa học và công nghệ theo hướng lấy doanh nghiệp làm trung tâm, lấy phục vụ hiệu quả sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc làm mục tiêu; tăng cường đầu tư phát triển khoa học và công nghệ theo cơ chế thị trường trên cơ sở huy động hợp lý nguồn lực từ Nhà nước, doanh nghiệp và các cá nhân; hỗ trợ, khuyến khích các cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp đầu tư nghiên cứu phát triển, chuyển giao, ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ…(3). Xây dựng môi trường hoạt động khoa học và công nghệ dân chủ, công khai, minh bạch; khắc phục tình trạng quan liêu, tham nhũng, tiêu cực, hành chính hóa trong hoạt động khoa học và công nghệ…
Việc ứng dụng khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp ở Việt Nam
Việc phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo ở Việt Nam nói chung và trong cộng đồng doanh nghiệp đã có những bước phát triển vượt bậc. Kết quả nghiên cứu khoa học và công nghệ được ứng dụng nhanh hơn, nhiều hơn, hiệu quả hơn trong các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh và đời sống xã hội, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, từng bước chuyển đổi mô hình tăng trưởng sang dựa nhiều vào ứng dụng khoa học và công nghệ và đổi mới sáng tạo. Các cơ quan quản lý đã từng bước đổi mới tư duy trong quản lý khoa học và công nghệ và đổi mới sáng tạo theo hướng lấy doanh nghiệp làm trung tâm, viện nghiên cứu và trường đại học là chủ thể tập trung nghiên cứu, khơi thông các nguồn lực, tăng cường huy động nguồn lực đầu tư cho khoa học và công nghệ và đổi mới sáng tạo, hỗ trợ các doanh nghiệp nghiên cứu, ứng dụng, đổi mới và chuyển giao công nghệ; phát triển các sản phẩm theo chuỗi giá trị; rà soát, tái cơ cấu các chương trình khoa học và công nghệ quốc gia; thúc đẩy gắn kết, hợp tác giữa các trường đại học, viện nghiên cứu với khu vực công nghiệp và doanh nghiệp để đẩy mạnh thương mại hóa kết quả nghiên cứu vào sản xuất, kinh doanh; đẩy mạnh hoạt động tiêu chuẩn, đo lường chất lượng, bảo hộ sở hữu trí tuệ, phát triển, khai thác tài sản trí tuệ...
Các cơ chế, chính sách khuyến khích và hỗ trợ doanh nghiệp đầu tư nghiên cứu, đổi mới công nghệ đã có những tác động tích cực giúp các doanh nghiệp nâng cao năng suất, chất lượng và năng lực cạnh tranh của sản phẩm, dịch vụ. Hướng mạnh việc gắn nhiệm vụ khoa học và công nghệ với sản phẩm đầu ra, với thực tiễn và thị trường; kiên trì thực hiện trao quyền tự chủ tối đa cho các tổ chức khoa học và công nghệ gắn với trách nhiệm giải trình; khuyến khích doanh nghiệp và khu vực tư nhân thành lập viện nghiên cứu và doanh nghiệp khoa học và công nghệ. Đã hình thành các kênh tài chính hỗ trợ viện nghiên cứu, trường đại học và doanh nghiệp thông qua hệ thống các quỹ quốc gia về khoa học và công nghệ. Đây là những dấu hiệu cho thấy hiệu quả của việc xã hội hóa trong nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ.
Nhận thức chung của doanh nghiệp và người dân về vai trò của khoa học và công nghệ và đổi mới sáng tạo đối với sản xuất, đời sống có bước chuyển đáng kể. Một bộ phận doanh nghiệp đã ưu tiên đầu tư, tiếp thu và ứng dụng các thành tựu khoa học và công nghệ hiện đại vào sản xuất, đổi mới máy móc, thiết bị, công nghệ, tạo bước tiến mới nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng năng suất lao động và sức cạnh tranh của doanh nghiệp.
Năm 2023, Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu GII (Global Innovation Index) của Việt Nam được xếp hạng 46/132 quốc gia, nền kinh tế, tăng 2 bậc so với năm 2022. Theo Báo cáo GII 2023, Việt Nam tiếp tục có sự cải thiện thứ hạng đầu vào đổi mới sáng tạo tăng 2 bậc so với năm 2022, từ vị trí 59 lên 57 (đầu vào đổi mới sáng tạo gồm 5 trụ cột: Thể chế, nguồn nhân lực và nghiên cứu, cơ sở vật chất, trình độ phát triển của thị trường, trình độ phát triển của doanh nghiệp). Đầu ra đổi mới sáng tạo tăng 1 bậc so với năm 2022, từ vị trí 41 lên 40 (đầu ra đổi mới sáng tạo gồm 2 trụ cột: Sản phẩm tri thức và công nghệ, sản phẩm sáng tạo).
Tuy nhiên, dù Việt Nam đã nỗ lực xây dựng khung pháp lý khuyến khích đổi mới sáng tạo, hỗ trợ doanh nghiệp đầu tư phát triển khoa học và công nghệ, các doanh nghiệp, nhà đầu tư vẫn gặp không ít khó khăn khi thực hiện các dự án đầu tư phát triển, ứng dụng khoa học và công nghệ, khi đưa các sản phẩm khoa học và công nghệ ra thị trường. Khoa học và công nghệ chưa thực sự trở thành động lực then chốt thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Một bộ phận lớn doanh nghiệp đầu tư cho khoa học và công nghệ còn hạn chế, kết quả chưa cao. Năm 2023, theo Báo cáo của Tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO), chi R&D của Việt Nam xếp hạng 66, không có sự cải thiện so với các năm trước.
Trình độ khoa học và công nghệ của nước ta nhìn chung còn khoảng cách khá xa so với nhóm đầu khu vực Đông Nam Á. Bên cạnh một số lĩnh vực có tốc độ đổi mới công nghệ khá nhanh, như công nghệ thông tin, viễn thông, dầu khí, hàng không, tài chính - ngân hàng…, nhiều doanh nghiệp vẫn đang sử dụng công nghệ lạc hậu so với mức trung bình của thế giới. Năng lực hấp thụ công nghệ, đổi mới công nghệ, đổi mới sáng tạo của doanh nghiệp trong nước còn những bất cập. Sự chuyển giao công nghệ tiên tiến, có tính cạnh tranh cao từ các doanh nghiệp FDI còn hạn chế. Năng lực nghiên cứu ứng dụng của các viện nghiên cứu, trường đại học còn khiêm tốn.
Chi ngân sách nhà nước cho khoa học và công nghệ chiếm khoảng 1,36% đến 1,52% tổng chi ngân sách nhà nước (chưa kể chi quốc phòng - an ninh và dự phòng). Tổng đầu tư của toàn xã hội cho khoa học và công nghệ bình quân trong các năm gần đây đạt khoảng 1,08% GDP, chưa đạt mục tiêu 2% GDP vào năm 2020...
Đặc biệt, từ góc độ thể chế, vẫn còn nhiều bất cập là rào cản đối với việc thúc đẩy doanh nghiệp đầu tư phát triển khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo, nâng cao sức cạnh tranh. Do đó, Việt Nam cần có nhiều giải pháp đồng bộ hoàn thiện thể chế huy động tổng lực cả ngân sách và nguồn lực tư nhân để thúc đẩy doanh nghiệp đầu tư phát triển khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo nhằm tạo ra động lực tăng trưởng mới cho nền kinh tế.
Giải pháp thúc đẩy doanh nghiệp Việt Nam ứng dụng khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo
Với việc chuyển sang mô hình phát triển theo chiều sâu, tăng trưởng xanh, phát triển kinh tế tri thức, kinh tế số, thì đổi mới sáng tạo và thúc đẩy phát triển và ứng dụng khoa học và công nghệ, nhất là công nghệ cao, thân thiện môi trường trở thành động lực quan trọng hàng đầu, đồng thời cần đặt nhân tố con người - nguồn nhân lực chất lượng cao vào trung tâm của sự phát triển, tạo thành “tam giác”: Con người - thể chế - công nghệ.
Tiếp theo Chiến lược Phát triển khoa học và công nghệ giai đoạn 2011 - 2020, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 569/QĐ-TTg, ngày 11-5-2022, về “Chiến lược phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo đến năm 2030”, trong đó đặt ra mục tiêu nâng cao đóng góp của khoa học và công nghệ và đổi mới sáng tạo vào tăng trưởng kinh tế thông qua các hoạt động nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ của các viện nghiên cứu và trường đại học, hoạt động đổi mới công nghệ, nâng cao năng lực quản trị, tổ chức trong doanh nghiệp. Đóng góp của năng suất nhân tố tổng hợp (TFG) vào tăng trưởng kinh tế ở mức trên 50%. Mục tiêu đến năm 2030, số doanh nghiệp đạt tiêu chí doanh nghiệp khoa học và công nghệ và số doanh nghiệp đổi mới sáng tạo tăng hai lần so với năm 2020; tỷ lệ doanh nghiệp có hoạt động đổi mới sáng tạo, đầu tư phát triển khoa học và công nghệ đạt 40% trong tổng số doanh nghiệp. Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu GII không ngừng được cải thiện, thuộc nhóm 40 quốc gia hàng đầu thế giới…
Để góp phần thực hiện thành công các mục tiêu, nhiệm vụ đề ra trong Nghị quyết Đại hội XIII và Chiến lược phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo đến năm 2030, qua đó thúc đẩy doanh nghiệp Việt Nam ứng dụng khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo, cần tập trung thực hiện một số giải pháp:
Thứ nhất, nâng cao nhận thức về tính cấp thiết phải xây dựng và hoàn thiện thể chế thúc đẩy doanh nghiệp đầu tư cho phát triển khoa học và công nghệ. Các cấp ủy đảng, chính quyền cần nhận thức sâu sắc hơn nữa về thực hiện chủ trương khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, trước hết là việc tạo lập môi trường thể chế thúc đẩy doanh nghiệp đầu tư phát triển khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo. Tăng cường vai trò, trách nhiệm của cơ quan, tổ chức trong xây dựng cơ chế quản lý, tạo môi trường thuận lợi thúc đẩy doanh nghiệp đầu tư phát triển khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo; đồng thời phát huy các tiềm năng để đổi mới sáng tạo, ứng dụng công nghệ hiện đại trong các lĩnh vực quản lý, thúc đẩy phát triển bền vững. Nhà nước cần tiếp tục xây dựng, hoàn thiện các chính sách, cơ chế hỗ trợ, khuyến khích các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp đầu tư nghiên cứu phát triển, chuyển giao, ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ. Thực hiện các chương trình thí điểm cơ chế hợp tác phù hợp cho mục đích nghiên cứu phát triển và đổi mới sáng tạo, từ đó tập trung khai thác nguồn lực khác nhau (như hợp tác công - tư, dịch vụ hành chính công hỗ trợ doanh nghiệp đầu tư phát triển khoa học và công nghệ…). Tăng cường sự hợp tác giữa các đơn vị nghiên cứu và doanh nghiệp, bao gồm cả doanh nghiệp nước ngoài. Sử dụng các chính sách ưu đãi về thuế để thu hút vốn đầu tư, cả từ trong nước và các nguồn lực nước ngoài đầu tư phát triển khoa học và công nghệ, đặc biệt là trong các lĩnh vực công nghệ cao, công nghiệp sáng tạo, công nghiệp hỗ trợ…
Thứ hai, đổi mới mạnh mẽ cơ chế quản lý, phương thức đầu tư và cơ chế tài chính. Đẩy mạnh thực hiện cơ chế đặt hàng, đấu thầu thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ, cơ chế khoán kinh phí đến sản phẩm khoa học và công nghệ cuối cùng theo kết quả đầu ra. Có cơ chế thúc đẩy đổi mới công nghệ, ứng dụng công nghệ mới, công nghệ hiện đại; hỗ trợ nhập khẩu công nghệ nguồn, công nghệ cao, mua thiết kế, thuê chuyên gia trong nước và nước ngoài thuộc các lĩnh vực ưu tiên; hỗ trợ doanh nghiệp mua công nghệ từ các viện nghiên cứu, trường đại học trong nước.
Xây dựng và thực hiện có hiệu quả cơ chế sử dụng vốn sự nghiệp kinh tế hỗ trợ đổi mới và chuyển giao công nghệ. Hoàn thiện và thực hiện nghiêm quy định việc doanh nghiệp lập quỹ phát triển khoa học và công nghệ; coi đây là yêu cầu bắt buộc đối với doanh nghiệp nhà nước và là hoạt động được khuyến khích hỗ trợ ưu đãi đối với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác. Khuyến khích tư nhân thành lập hoặc liên kết với Nhà nước thành lập các quỹ đầu tư mạo hiểm đối với hoạt động nghiên cứu phát triển công nghệ mới, công nghệ cao. Đồng thời, chú trọng ngăn chặn có hiệu quả việc nhập công nghệ lạc hậu, công nghệ gây nguy hại đến sức khoẻ con người, tài nguyên, môi trường, kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh.
Thứ ba, đổi mới cơ chế hoạt động của các tổ chức khoa học và công nghệ, đẩy mạnh thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của tổ chức khoa học và công nghệ công lập về nhân lực, kinh phí hoạt động dựa trên kết quả và hiệu quả hoạt động. Tăng cường liên kết giữa tổ chức khoa học và công nghệ với doanh nghiệp trong việc thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu ứng dụng, đổi mới công nghệ, đào tạo nhân lực gắn với yêu cầu vận dụng trong thực tiễn phát triển sản xuất, kinh doanh và nhu cầu thị trường. Tăng cường thực hiện cơ chế hợp tác công - tư, đồng tài trợ thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ. Giao quyền sở hữu các kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ có sử dụng ngân sách nhà nước cho cơ quan chủ trì nhiệm vụ khoa học và công nghệ, đồng thời có cơ chế phân chia hợp lý lợi ích giữa Nhà nước, cơ quan chủ trì và tác giả. Tạo điều kiện để các tổ chức khoa học và công nghệ được vay vốn từ các quỹ hoặc các tổ chức tín dụng nhằm thúc đẩy đổi mới sáng tạo, hoạt động nghiên cứu và phát triển khoa học và công nghệ.
Thứ tư, nâng cao hiệu lực, hiệu quả thể chế hỗ trợ doanh nghiệp phát triển thông qua thực thi các Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp, Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa… Xây dựng các mô hình hỗ trợ doanh nghiệp đầu tư phát triển khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo, đồng thời tạo mối liên hệ theo chuỗi cung ứng. Tăng cường hiệu quả các quy định ưu đãi đối với đối tượng là doanh nghiệp đầu tư phát triển khoa học và công nghệ, như mức ưu đãi đối với kết quả nghiên cứu, phát triển khoa học và công nghệ mới và các sản phẩm, dịch vụ khoa học và công nghệ mới. Tập trung cải thiện các thể chế liên quan nhằm tăng cường kết nối giữa các doanh nghiệp xuất khẩu có năng suất cao hơn với các nhà cung ứng trong nước, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong nước đầu tư phát triển và ứng dụng khoa học và công nghệ hiện đại, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả sản xuất, kinh doanh.
Thứ năm, thực hiện đồng bộ các giải pháp để phát triển thị trường khoa học và công nghệ, phát huy hiệu quả các nguồn lực đầu tư từ ngân sách nhà nước vào các dự án nghiên cứu phát triển khoa học và công nghệ, từ các doanh nghiệp đầu tư phát triển khoa học và công nghệ, các nguồn lực xã hội, đa dạng các kênh đầu tư, tăng tính liên kết hệ thống để thúc đẩy sự phát triển của thị trường khoa học và công nghệ. Ngược lại, khi thị trường khoa học và công nghệ phát triển sẽ thúc đẩy các doanh nghiệp dễ dàng đầu tư phát triển khoa học và công nghệ để mở rộng, nâng cao chất lượng sản xuất, kinh doanh. Điều này cần có sự hoàn thiện các quy định pháp luật về sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ, tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật, chất lượng sản phẩm, hàng hóa để hỗ trợ hiệu quả cho việc vận hành thị trường khoa học và công nghệ. Phát triển mạng lưới các tổ chức dịch vụ kỹ thuật khoa học và công nghệ, môi giới, chuyển giao, tư vấn, đánh giá và định giá công nghệ.
Đầu tư xây dựng các sàn giao dịch công nghệ quốc gia tại các thành phố lớn, như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng… liên thông với hệ thống các trung tâm ứng dụng và chuyển giao công nghệ của các tỉnh, thành phố, kết nối với các sàn giao dịch công nghệ khu vực và thế giới để phát triển thị trường khoa học và công nghệ. Các cơ quan chức năng tạo điều kiện thuận lợi giúp doanh nghiệp đầu tư phát triển khoa học và công nghệ đăng ký bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, thúc đẩy các hoạt động đổi mới sáng tạo mở của doanh nghiệp, từ đó tăng khả năng nghiên cứu phát triển, tăng nguồn cung - cầu và giao dịch cung - cầu phát triển thị trường khoa học và công nghệ. Đối với các doanh nghiệp, cần lấy đổi mới công nghệ và chất lượng quản lý làm phương pháp then chốt để khắc phục khó khăn, vươn lên trở thành chủ thể chính của hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia. Để tồn tại và lớn mạnh, các doanh nghiệp cần hướng mạnh vào thị trường, tích cực nghiên cứu và phát triển, tăng lợi ích kinh tế bằng cách dựa vào tiến bộ khoa học và công nghệ hiện đại./.
Nguyễn Thị Ánh
Ban Tuyên giáo Trung ương
-------------------------------------
(1) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội 2021, t. I, tr. 120 - 121
(2) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 220, 140
(3) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 141