30/11/2024 lúc 02:38 (GMT+7)
Breaking News

Những kế hoạch còn bỏ ngỏ trong việc di dời các xí nghiệp, nhà máy

VNHN - Sự cố ở công ty Rạng Đông là cơ hội để các cơ quan chức năng lật lại chủ trương di dời các xí nghiệp, nhà máy gây ô nhiễm ra khỏi nội đô, vốn được đề ra từ 16 năm trước.

VNHN - Sự cố ở công ty Rạng Đông là cơ hội để các cơ quan chức năng lật lại chủ trương di dời các xí nghiệp, nhà máy gây ô nhiễm ra khỏi nội đô, vốn được đề ra từ 16 năm trước.

Vụ hỏa hoạn chiều 28/8 đã làm Công ty cổ phần Bóng đèn phích nước Rạng Động thiệt hại khoảng 150 tỷ đồng. Tuy nhiên, điều đáng lo ngại nhất hiện nay là nguy cơ ô nhiễm môi trường và những tác động tiêu cực do ô nhiễm đến sức khỏe người dân đang sinh sống quanh khu vực đám cháy. Sự cố ở công ty Rạng Đông cũng là cơ hội để các cơ quan chức năng lật lại chủ trương di dời các xí nghiệp, nhà máy gây ô nhiễm ra khỏi nội đô, vốn được đề ra từ 16 năm trước.

Công ty cổ phần Bóng đèn Phích nước Rạng Đông (tiền thân là nhà máy Bóng đèn Phích nước Rạng Đông) được khởi công xây dựng từ năm 1958, là một trong 13 nhà máy đầu tiên được thành lập theo quyết định của Chính phủ, đặt nền móng cho nền công nghiệp Việt Nam thời kỳ đầu xây dựng xã hội chủ nghĩa. Tháng 11/1963, nhà máy được khánh thành với sản phẩm ban đầu chủ yếu là phích nước, bóng đèn tròn, bóng đèn huỳnh quang, đèn pha ôtô phục vụ cho kháng chiến. Trong nhiều năm không ngừng đổi mới, phát triển, từ năm 2005, Công ty chuyển đổi theo mô hình cổ phần và trở thành một trong những doanh nghiệp Việt uy tín, chiếm lĩnh được thị trường trong nước và xuất khẩu ngày càng nhiều. Các sản phẩm chính của công ty là bình thủy và thiết bị chiếu sáng.

Sản phẩm phích nước của Rạng Đông chiếm đến 85% thị phần tiêu dùng trong nước, sản lượng tiêu thụ bóng đèn tròn khoảng 45-50 triệu sản phẩm, hiện dẫn đầu thị trường Việt Nam. Sau vụ cháy ở công ty Rạng Đông, lượng thủy ngân bị phát tán chủ yếu có trong các bóng đèn huỳnh quang và bóng đèn compact đang được lưu giữ tại khu vực kho xưởng. Theo thông tin từ các nhà khoa học, thủy ngân là kim loại có tính chất rất đặc thù, nóng chảy ở 0 độ C, hơn 30 độ C đã sôi và phát tán, bay lên, nhưng lại là kim loại nặng nên nếu gặp mưa sẽ lắng đọng lại. Sau sự cố, trời có mưa lớn, có thể mưa đã làm lắng đọng thủy ngân tồn dư trong không khí vào môi trường đất, nước.

Hiện trường vụ cháy phía bên trong nhà máy. 

Vì vậy, không khí tại khu vực bị ảnh hưởng đã được “thanh lọc tự nhiên,” làm giảm nồng độ thủy ngân. Tuy nhiên, khi trời nắng nóng, lượng thủy ngân nếu còn lắng đọng tại các hố ga, tường rào hay tàn dư sau cháy sẽ tiếp tục bay hơi, phát tán ra môi trường xung quanh. Sau khi hàng chục kg thủy ngân phát tán ra môi trường sau vụ cháy kho Rạng Đông, các quyết định di dời nhà máy, xí nghiệp ra khỏi nội đô từ 16 năm trước lại được nhắc đến. Ngày 22/4/2003, Thủ tướng đã ban hành Quyết định phê duyệt kế hoạch xử lý triệt để các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Không lâu sau đó, Ủy ban Nhân dân thành phố Hà Nội có quyết định di chuyển các cơ sở sản xuất không phù hợp quy hoạch, nguy cơ ô nhiễm môi trường khỏi nội đô.

Nhưng đến nay, sau 16 năm, khu vực Thượng Đình (Nguyễn Trãi, Thanh Xuân), là nơi tập trung đông nhất các cụm nhà máy, kho xưởng gây ô nhiễm vẫn hầu như không thay đổi. Công ty cổ phần Cao su Sao Vàng, Công ty Thuốc lá Thăng Long... đều nằm trong danh sách những cơ sở gây ô nhiễm nhất, ảnh hưởng đến cuộc sống của cư dân khu vực xung quanh. Công ty Thuốc lá Thăng Long nằm trên diện tích hơn 6,4ha được duyệt di dời 9 năm trước. Gần đó là nhà máy của Công ty cổ phần Cao su Sao Vàng vẫn đang hoạt động, dù kế hoạch chuyển về Hà Nam cũng được lên kế hoạch từ lâu.

Ngoài ra còn có công ty Giày Thượng Đình, và cả công ty Cổ phần Bóng đèn phích nước Rạng Đông… tất cả đến nay vẫn giữ nguyên hiện trạng, cho đến khi sự cố xảy ra. Năm 2016, thành phố Hà Nội đã xác định lộ trình đến năm 2020 sẽ di dời 117 cơ sở gây ô nhiễm trên địa bàn 12 quận ra khỏi nội thành. Trong số này, nhiều nhất là quận Đống Đa, Hà Đông, Thanh Xuân... Tuy nhiên, đến tháng 9/2018, Hà Nội mới chỉ giảm được 4 cơ sở và vẫn còn tới 113 nhà máy hoạt động trong nội thành. Đây là một kế hoạch khó khăn và quy mô, nhưng cần thiết để trả lại cho hàng nghìn người dân thủ đô môi trường sống lành mạnh và an toàn.