Nhiệt điện Vũng Áng - niềm tự hào của người dân Hà Tĩnh.
Theo Quy hoạch điện VII của Tập đoàn Điện lực Việt Nam, giai đoạn 2011-2015, cả nước cần xây dựng 23.000MW nguồn (gần 4.600 MW/năm), giai đoạn 2016 - 2020 cần xây dựng 27.200MW nguồn (trên 5.400 MW/năm). Với nhu cầu thiết yếu trên Nhà máy Nhiệt điện Vũng Áng (NMNĐ) 1 được bắt tay xây dựng nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển của đất nước. Đây là dự án trọng điểm quốc gia được xây dựng tại Khu kinh tế Vũng Áng (huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh) là khu vực có vị trí thuận lợi để xây dựng một nhà máy có công suất lớn và có điều kiện để mở rộng khi cần thiết với diện tích mặt bằng là 190ha, trong đó diện tích Nhà máy chính là 40ha, bãi thải xỉ 132ha, trạm bơm và các tuyến đường ống, băng tải hơn 8ha, các khu văn phòng làm việc và khu chỗ ở cho công nhân vận hành Nhà máy gần 10ha. NMNĐ Vũng Áng 1 là một dự án có quy mô đầu tư vốn lớn, với những yêu cầu kỹ thuật, thiết kế, xây dựng, lắp đặt, đồng bộ hết sức phức tạp và nghiêm ngặt, đòi hỏi trình độ cao. Việc triển khai dự án là một thách thức lớn ngay cả với những Tập đoàn chuyên ngành năng lượng điện trên thế giới.
Dự án Nhà máy Nhiệt điện Vũng Áng 1 được triển khai xây dựng từ tháng 9 năm 2009. Sau hơn 5 năm chính thức đi vào vận hành thương mại tổ máy số 1 vào 31/12/2014, tổ máy số 2 vào 12/5/2015, công suất 1.200 MW. Sự ra đời của Nhà máy nhiệt điện Vũng Áng 1 là hướng đi đúng đắn của Tập đoàn PVN cũng như sự kêu gọi đầu tư từ tỉnh Hà Tĩnh, có ý nghĩa rất lớn về mặt xã hội. Điện năng sản xuất của nhà máy đạt 7,2 tỷ kwh/năm, trong đó điện thương phẩm là 6,71 tỷ kwh/năm, phát điện lên lưới điện quốc gia cung cấp nguồn điện năng phục vụ phát triển kinh tế -xã hội đất nước, đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, giải quyết tình trạng thiếu hụt điện năng của hệ thống điện quốc gia giai đoạn 2006-2015. Trong 5 năm vận hành thương mại, Nhà máy Nhiệt điện Vũng Áng 1 đã cung cấp cho lưới điện quốc gia hơn 21,5 tỷ kwh điện thương phẩm, một trong những doanh nghiệp đóng góp ngân sách hàng đầu trên khu vực, tạo việc làm cho gần 1.000 lao động với thu nhập ổn định, góp phần quan trọng vào phát triển kinh tế xã hội chung của cả nước.
Sản xuất, kinh doanh theo hướng phát triển bền vững
Ngay từ những năm đầu đi vào hoạt động, NMNĐ Vũng Áng đã tập trung mọi nguồn lực để thực hiện bằng được mục tiêu: Tăng nguồn thu, phát triển bền vững, đảm bảo an ninh năng lượng, vận hành an toàn, hiệu quả, đáp ứng nhu cầu sử dụng điện năng ngày càng tăng trong các lĩnh vực kinh tế xã hội của cả nước và khu vực miền Trung. Trong hai năm 2015 và 2016, sản lượng điện sản xuất của Nhà máy đạt gần 8 tỷ kwh. Năm 2017, nhà máy đóng góp cho lưới điện quốc gia 4.385 triệu kwh, doanh thu đạt 7.656,25 tỷ đồng; nộp ngân sách nhà nước: 378,79 tỷ đồng. Riêng 6 tháng đầu năm 2018, sản lượng điện sản xuất đạt 3,155 tỷ kwh, vượt 108 % so với cùng kỳ năm 2017, doanh thu đạt 4.700 tỷ đồng; đóng góp ngân sách nhà nước 200 tỷ đồng. Vào những tháng cuối năm 2018, nhiều Nhà máy nhiệt điện đều tăng công suất hoạt động của các tổ máy phát điện nên đẫn đến việc khan hiếm nguồn nhiêu liệu sản xuất. Trước thực trạng này, lãnh đạo NMNĐ Vũng Áng 1 lên kế hoạch lưu trữ nguyên liệu sản xuất ngay từ đầu năm để duy trì sản xuất. Do đó, đã khắc phục tình trạng thiếu nhiên liệu, hoạt động của Nhà máy vẫn được bảo đảm theo kế hoạch. Năm 2019, mặc dù còn có nhiều khó khăn do nhiên liệu đầu vào không ổn định, thời tiết diễn biến phức tạp, nhưng tập thể cán bộ công nhân Nhà máy vẫn quyết tâm khắc phục mọi khó khăn, tiếp tục duy trì phát triển sản xuất, tăng nguồn thu cho đơn vị. Năm 2019, Nhà máy vẫn phát điện đạt 5,8 tỷ kwh, nộp ngân sách nhà nước 371 tỷ đồng. Ông Mai Văn Long, Phó Giám đốc NMNĐ Vũng Áng 1 cho biết, 2019 là năm Nhà máy Nhiệt điện Vũng Áng 1 đạt sản lượng và nộp ngân sách cao nhất kể từ khi vận hành thương mại đến nay. Năm 2020, do ảnh hưởng lớn từ dịch bệnh COVID-19, nhưng tổng sản lượng điện năm 2020 của Nhà máy vẫn đạt 6,54 tỷ kwh, doanh thu 10.116 tỷ đồng, nộp ngân sách 415 tỷ đồng; tăng 13,87% so với năm 2019, hoàn thành 105% kế hoạch năm. Trong điều kiện dịch bệnh COVID-19 diễn biến phức tạp, Nhà máy đã chủ động xây dựng và triển khai kịp thời, linh hoạt “kịch bản” phòng, chống COVD-19 nhằm đảm bảo vận hành an toàn, liên tục 2 tổ máy phát điện. Hằng ngày, người lao động đi làm bằng phương tiện do công ty bố trí và không ra khỏi các khu nhà khi không đi làm. Cũng trong thời điểm này, trên 300 lao động của các đối tác, nhà thầu phụ đang thực hiện công việc tại Nhà máy được bố trí ở tập trung tại khu nhà riêng biệt cạnh nhà máy. Ngoài ra Nhà máy còn chủ động phối hợp với ngành y tế địa phương thực hiện test nhanh virus SARS-CoV-2, lấy mẫu xét nghiệm bằng kỹ thuật Realtime-PCR và tiêm vaccine cho gần 800 cán bộ, công nhân viên.
Năm 2021, xẩy ra sự cố kỹ thuật ở Tổ máy số 1 đã làm ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất kinh doanh của Nhà máy. Thế nhưng tổng sản lượng điện thương mại của nhà máy vẫn đạt 5.580 triệu kwh, đạt 79 % so với kế hoạch được giao. Tổng doanh thu của nhà máy đạt hơn 8.819 tỷ đồng, đóng nộp ngân sách nhà nước đầy đủ. Nhằm từng bước khắc phục các khó khăn, lãnh đạo nhà máy đã nổ lực tiến hành đồng thời nhiều giải pháp vừa đảm bảo hoạt động sản xuất kinh doanh, khắc phục các sự cố và phòng chống dịch.
Những tháng đầu năm 2022, NMNĐ Vũng Áng 1 luôn duy trì chế độ 3 ca, 5 kíp trực để vận hành an toàn, liên tục tổ máy số 2 (với công suất 600 MW), đảm bảo phát điện lên lưới quốc gia trong mọi thời điểm, duy trì ổn định chuỗi sản xuất với doanh thu cao. Mặt khác, tiếp tục phối hợp triển khai khắc phục, sửa chữa sự cố kỹ thuật ở tổ máy số 1, phấn đấu đến cuối năm 2022 sẽ đưa tổ máy này vận hành trở lại. Ông Nguyễn Duy Minh – Phó tổng Giám đốc nhà máy cho biết: “Thời gian qua đơn vị đã xây dựng kế hoạch và tổ chức lựa chọn nhà thầu có uy tín để nhanh chóng triển khai khắc phục sự cố của tổ máy số 1. Theo đó, Nhà máy cũng đã ký hợp đồng với nhà thầu chính là Công ty CP Dịch vụ kỹ thuật Điện lực Dầu khí Việt Nam, Chi nhánh Hà Tĩnh để làm nhiệm vụ kiểm tra định kỳ các thiết bị tại tổ máy số 1”. Nên trong quý I năm 2022, sản lượng điện của nhà máy đạt 833,49 triệu kwh, doanh thu đạt 1.396,5 tỷ đồng. Theo kế hoạch năm 2022, Nhà máy Nhiệt điện Vũng Áng 1 đặt mục tiêu sản lượng điện đạt 4.606 triệu kwh, doanh thu đạt 7.585,9 tỷ đồng và đóng nộp ngân sách Nhà nước 264 tỷ đồng.
Sản xuất gắn với bảo vệ môi trường và an sinh xã hội
Nhận thức rõ tầm quan trọng của sự phát triển bền vững, Nhà máy đã rất chú trọng triển khai các công trình bảo vệ môi trường, đảm bảo xử lý tốt nhất các chất thải, khí thải, bụi thải trong và sau quá trình sản xuất, v.v… Theo ông Mai Văn Long, Phó Giám đốc NMNĐ Vũng Ánh 1: để hạn chế đến mức thấp nhất những tác động ảnh hưởng xấu đên môi trường trong quá trình sản xuất, Nhà máy đã tiến hành xử lý các chất thải, khí thải và bụi thải một cách nghiêm ngặt. Trước hết các Nguồn nước thải của Nhà máy thường xuyên được thu gom, xử lý cục bộ tùy theo chất lượng từng loại nước thải, sau đó được đưa về hệ thống xử lý nước thải của Nhà máy. Tại đây, nước thải được xử lý bằng phương pháp hóa lý đạt theo Quy chuẩn QCVN 40:2011/BTNMT được tuần hoàn lại bể chứa nước trung gian. Tại bãi chứa xỉ, nước sau khi đã lắng trong sẽ được bơm tuần hoàn tái sử dụng mà không thải ra môi trường. Bùn sau hệ thống xử lý nước thải được bơm về hồ chứa xỉ và đưa ra bãi chứa xỉ bằng thủy lực. Đối với các nguồn nước thải nhiễm dầu từ khu vực máy biến thế, khu bể dầu HFO... được thu gom về hệ thống xử lý nước thải nhiễm dầu, về hố thu nước thải lẫn dầu, từ đó bơm về các bể tách dầu. Dầu tách ra được tái sử dụng, nước trong được bơm về bể lưu chứa, xử lý trước khi thải ra môi trường. Về bụi và khí thải phát sinh trong quá trình vận hành, Nhà máy trang bị đầy đủ các hệ thống xử lý gồm hệ thống lọc bụi tĩnh điện, hệ thống lọc bụi túi, hệ thống khử lưu huỳnh, hệ thống khử NOx. Về vấn đề xử lý chất thải rắn công nghiệp phát sinh từ các hoạt động của Nhà máy với lượng tro, xỉ khoảng 1,01 triệu tấn/năm, được vận chuyển đến bãi chứa xỉ bằng hệ thống vận chuyển tro xỉ thủy lực. Nhà máy đã công bố chất lượng tro, xỉ than và mời gọi các doanh nghiệp hợp tác sản xuất vật liệu xây dựng từ tro, xỉ than phục vụ xây dựng, góp phần giảm tải bãi bãi chứa xỉ than. Nằm độc lập và cách xa khu dân cư, nơi được coi là vùng đất “chảo lửa túi mưa”, thế nhưng Nhà máy được bao bọc bởi hệ thống cây xanh tạo nên một môi trường “xanh,sạch, đẹp” trong khuôn viên. Để có một không gian xanh tại nhà máy như hiện nay, ngay từ những ngày đầu thành lập, đơn vị đã xác định chiến lược kinh doanh phải bảo đảm tính bền vững, sản xuất phải luôn đi đôi với bảo vệ môi trường.
Bên cạnh đó, công tác an sinh xã hội cũng được lãnh đạo Nhà máy đặc biệt chú trọng. Hằng năm, đơn vị đã bỏ ra hàng tỷ đồng hỗ trợ địa phương xây dựng các công trình phúc lợi, tổ chức nhiều hoạt động chia sẻ với các gia đình khó khăn tại các xã, phường lân cận; tài trợ 5 tỷ đồng xây dựng trường mầm non tại phường Kỳ Thịnh, thị xã Kỳ Anh; hỗ trợ tối đa các hộ dân bị thiệt hại nặng do lũ lụt gây ra và đóng góp 1 tỷ đồng quỹ an sinh xã hội của tập đoàn Dầu khí Việt Nam...với hơn 1,5 tỷ đồng của Nhà máy vào các hoạt động an sinh xã hội trên địa bàn Thị xã Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh, trong đó Nhà máy luôn quan tâm đối với các hộ nghèo trên địa bàn.
Anh Bình - Trọng Thắng