VNHN - Nền nông nghiệp Việt Nam được phát triển chủ yếu dựa vào khoảng 10 triệu hộ nông dân cá thể với trên 76 triệu thửa và mảnh ruộng nhỏ lẻ, phân tán. Đây là một trong những trở ngại lớn nhất cho việc phát triển nền nông nghiệp hiện đại và bền vững trên cơ sở hợp tác, liên kết giữa doanh nghiệp, đặc biệt là các tập đoàn kinh tế.
Thông tin này được Viện Nghiên cứu kinh tế và chính sách (VEPR) đưa ra tại Diễn đàn Nông nghiệp mùa thu 2019 do Liên minh Nông nghiệp Việt Nam phối hợp với Viện Nghiên cứu kinh tế và chính sách (VEPR) tổ chức ngày 24/10. Theo đó, nền nông nghiệp Việt Nam được phát triển chủ yếu dựa vào khoảng 10 triệu hộ nông dân cá thể với trên 76 triệu thửa và mảnh ruộng nhỏ lẻ, phân tán. Hiện nay các doanh nghiệp lớn đang có xu hướng đầu tư vốn vào nông nghiệp bằng cách chuyển một phần vốn từ kinh doanh công nghiệp, bất động sản, dịch vụ sang nông nghiệp.
Toàn cảnh Diễn đàn Nông nghiệp mùa thu 2019.
Các doanh nghiệp (DN) này phải mua hoặc cho thuê lại quyền sử dụng đất của các nông hộ nhỏ lẻ. Vì vậy, trong thời gian qua, thị trường quyền sử dụng đất nông nghiệp đã phát triển nhanh với tỉ lệ diện tích đất nông nghiệp được thuê, mua ngày càng tăng. Đặc biệt, kể từ khi Luật Đất đai có hiệu lực từ năm 2013 đã khuyến khích các hộ gia đình, cá nhân, DN thực hiện dồn điền đổi thửa, nhận chuyển nhượng hoặc thuê lại quyền sử dụng đất để phát triển trang trại; hợp tác, liên kết sản xuất gắn với tiêu thụ nông sản, xây dựng cánh đồng lớn, tạo ra chuyển biến lớn trong việc sử dụng hiệu quả đất nông nghiệp, tập trung sản xuất quy mô hàng hóa lớn.
Tại Việt Nam, chủ trương tích tụ và tập trung ruộng đất được đặt ra từ nhiều năm nay nhưng kết quả thực hiện chủ trương đó không đạt được mục tiêu kỳ vọng. Một trong những nguyên nhân chủ yếu của tình trạng này là ở chỗ thị trường đất nông nghiệp chưa phát triển do các bất cập trong chính sách đất nông nghiệp hiện hành. Phó Giáo sư, Tiến sĩ Vũ Trọng Khải, nguyên Hiệu trưởng Trường cán bộ Quản lý nông nghiệp và phát triển nông thôn II, cho rằng định hướng hoàn thiện chính sách đất đai để phát triển nông nghiệp cần phải dựa trên những tư duy kinh tế mới, hoạch định chính sách phát triển nông nghiệp theo cơ chế kinh tế thị trường.
Xu thế tất yếu khách quan trong nền kinh tế thị trường là các trạng trại trồng cây nông nghiệp, cây lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản, hải sản không ngừng tăng quy mô ruộng đất phù hợp với tầm hạn quản lý của chủ trang trại để có lợi thế kinh tế theo quy mô và áp dụng công nghệ mới có hiệu quả. Việc “Dồn điền, đổi thửa” không phải là hình thức tích tụ và tập trung ruộng đất, vì nó không làm tăng quy mô ruộng đất của một nông hộ mà chỉ làm giảm số lượng thửa đất. Vùng sản xuất chuyên canh không phụ thuộc và địa giới hành chính mà phụ thuộc vào vùng lãnh thổ sinh thái tự nhiên và nhân văn.
Thu hút DN đầu tư công nghệ sẽ tăng giá trị sử dụng đất nông nghiệp.
Do vậy, chỉ có Chính phủ mới có đủ trách nhiệm và quyền hạn chỉ đạo phát triển vùng sản xuất chuyên môn hóa với những sản phẩm chiến lược của mỗi vùng. Các tỉnh không thể tự nguyện liên kết với nhau để xây dựng vùng sản xuất chuyên môn hóa do sự khác biệt về lợi ích. Đề cập đến các rào cản của chính sách đất đai, Tiến sĩ Trần Công Thắng, Viện Chính sách và Chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn, cho biết, mức phí và thuế liên quan đến chuyển nhượng đất nông nghiệp bị áp chung như các bất động sản khác.
Doanh nghiệp tư nhân trong nước không được giao đất có thu tiền sử dụng đất nông nghiệp, mà chỉ được thuê đất để đầu tư sản xuất nông nghiệp; quyền tài sản đối với đất nông nghiệp chưa được đảm bảo như các loại đất khác. Chưa có quy định cho phép chuyển đổi mục đích sử dụng đất linh hoạt giữa các loại đất trong nội bộ ngành nông nghiệp, chưa có các quy định cụ thể về hướng dẫn việc chuyển đổi mục đích sử đụng đất từ nhóm đất nông nghiệp sang đất cho chăn nuôi, vai trò của Nhà nước trong việc hỗ trợ doanh nghiệp thuê lại hoặc nhận góp vốn bằng quyền sử dụng đất nông nghiệp quy mô lớn của nông dân.
Nnhiều doanh nghiệp mua lại quyền sử dụng đất nông nghiệp từ nông dân, nhưng phải chuyển nhượng rất lòng vòng.
Tiến sĩ Trần Công Thắng đề xuất bỏ hạn mức nhận chuyển nhượng quyền sử đụng đất nông nghiệp và sử dụng hạn mức nhận chuyển nhượng hiện nay, làm mức khởi điểm để đánh thuế sử dụng đất nông nghiệp theo kiểu lũy tiến; quy định và giám sát chặt chẽ diện tích tối thiểu để tránh tách thửa gây manh mún ruộng đất; giảm thuế, phí liên quan đến chuyển nhượng đất nông nghiệp để tăng cường chính thức hóa giao dịch đất nông nghiệp; khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào các khu/cụm/công viên/trung tâm công nghiệp-dịch vụ hỗ trợ nông nghiệp thông qua việc thuê đất nông nghiệp hoặc liên kết với trang trại, hợp tác xã.
Hệ thống quản lý đất điện tử cần được xây dựng để cung cấp thông tin số hóa về quyền sử dụng đất và giao dịch nhằm minh bạch thị trường. Tuy nhiên, diễn đàn đã chỉ ra nhiều rào cản chính sách trong tích tụ đất nông nghiệp. Cụ thể là hạn mức nhận chuyển nhượng sử dụng đất nông nghiệp vẫn còn hạn chế, không quá 10 lần hạn mức được giao; DN trong nước không được giao đất có thu tiền sử dụng đất nông nghiệp mà chỉ được thuê đất để đầu tư sản xuất nông nghiệp; DN nước ngoài không được phép nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
Đặc biệt là quyền tài sản đối với đất nông nghiệp chưa được đảm bảo như các loại đất khác (do chưa có sở hữu). Trong khi đó, chưa có quy định rõ vai trò của Nhà nước trong việc hỗ trợ DN thuê lại hoặc nhận góp vốn bằng quyền sử dụng đất nông nghiệp quy mô lớn. Với chủ đề “Chính sách đất đai và sự phát triển nông nghiệp Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế”, tại diễn đàn, đã có nhiều khuyến nghị thúc đẩy phát triển thị trường quyền sử dụng đất nông nghiệp gắn với sản xuất quy mô hàng hóa lớn.
Thời gian qua, Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách về sản xuất, kinh doanh, chế biến sản phẩm nông nghiệp sạch, an toàn. Tuy nhiên, nhiều quy định khi đi vào thực tế còn bất cập, chưa thống nhất.
Nhiều ý kiến của Viện Chính sách và Chiến lược phát triển nông thôn và các chuyên gia đề xuất, cần bỏ hạn mức chuyển nhượng quyền sử dụng đất nông nghiệp và hạn mức nhận chuyển nhượng hiện nay làm mức khởi điểm để đánh thuế sử dụng đất nông nghiệp theo kiểu lũy tiến; quy định rõ và giám sát chặt chẽ diện tích tối thiểu để tránh tách thửa, làm manh mún nhỏ lẻ. Mặt khác, cần xây dựng chính sách hỗ trợ các cá nhân đăng ký làm trang trại, gia trại song song với việc khuyến khích DN đầu tư vào các khu/cụm/công viên/trung tâm công nghiệp - dịch vụ hỗ trợ nông nghiệp thông qua việc thuê đất.
Đồng thời, tiến tới xây dựng các trung tâm hỗ trợ chuyển nhượng, chuyển giao đất nông nghiệp để tạo thuận lợi cho quá trình tích tụ đất nông nghiệp theo nhiều hình thức, bao gồm cả chuyển nhượng, cho thuê, góp vốn và hợp tác kinh doanh. Có như vậy mới xây dựng được thị trường chuyển nhượng quyền sử dụng đất nông nghiệp để sản xuất quy mô lớn cũng như phát huy quyền tài sản đối với đất nông nghiệp, định hướng độc lập theo hướng giá trị tài sản đất và bất động sản gắn liền với quy hoạch vùng.