VNHN - Trong khi ô nhiễm môi trường, nhất là ô nhiễm do xả thải từ sản xuất công nghiệp gây ra những hậu quả nặng nề cho môi trường, xã hội thì việc giám sát, kiểm soát của cơ quan chức năng lại có không ít vấn đề, đòi hỏi cần sớm được khắc phục.

Ảnh minh họa
Nhận thức rõ hệ lụy mà ô nhiễm môi trường nói chung, ô nhiễm môi trường do nước thải công nghiệp nói riêng rất nghiêm trọng, nhiều địa phương, điển hình như TP Hồ Chí Minh, Hà Nội, Bình Dương, Bà Rịa - Vũng Tàu, Đồng Nai, Long An, Quảng Ninh, Bắc Ninh... - những nơi có số lượng khu công nghiệp lớn đã chú trọng lựa chọn, thu hút các dự án công nghệ cao, dự án có tỷ lệ đầu tư về môi trường lớn. Một số địa phương đã bước đầu thực hiện việc phòng ngừa, kiểm soát ô nhiễm môi trường trong quá trình thu hút đầu tư thông qua việc lựa chọn những ngành nghề, dự án đầu tư có hàm lượng công nghệ cao, công nghệ tiên tiến, công nghệ sạch… Nhờ đó, việc quản lý, kiểm soát nguồn nước thải công nghiệp có sự chuyển biến nhất định. Đến đầu năm 2020, toàn quốc đã có 244/274 khu công nghiệp đang hoạt động có hệ thống xử lý nước thải tập trung(chiếm 89%);191/244 khu công nghiệp có trạm quan trắc tự động, chiếm 78,3%. Có 276 cụm công nghiệp có báo cáo đánh giá tác động môi trường, 160 cụm công nghiệp có hệ thống tách nước mưa và nước thải, 109 cụm công nghiệp có hệ thống xử lý nước thải tập trung, đạt 15,8%, 10 cụm công nghiệp có hệ thống quan trắc tự động nước thải…
Tuy nhiên, thực tế cho thấy ở nhiều nơi, nước thải công nghiệp vẫn là nguồn gây ô nhiễm chính tại các dòng sông. Việc tuân thủ các quy định của các doanh nghiệp còn mang tính hình thức, vận hành các hệ thống xử lý nước thải tập trung vẫn mang tính đối phó và chưa thực sự hiệu quả. Hầu hết các doanh nghiệp sản xuất trong ngành công nghiệp khai thác, công nghiệp chế biến thực phẩm và đồ uống, chế biến thuốc lá, sản phẩm dệt, may mặc, da và giả da… đều sử dụng hóa chất nhưng một số chưa quan tâm đến công tác bảo đảm an toàn gây nên rò rỉ các hóa chất độc hại ra môi trường làm ô nhiễm nguồn nước. Hiện vẫn còn nhiều khu, cụm công nghiệp chưa có trạm quan trắc tự động nên việc quản lý chất lượng nước thải vẫn hạn chế. Trong khi đó, năng lực quản lý môi trường ở cấp độ quản lý nhà nước và quản trị môi trường của các doanh nghiệp chưa đáp ứng được yêu cầu; tổ chức thực hiện còn yếu kém, nhất là cấp địa phương, cơ sở. Trong khi đó, vẫn còn nhiều cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng chưa được xử lý triệt để, nhiều cơ sở công nghiệp nằm xen lẫn trong khu dân cư chậm được di dời…
Trước thực trạng trên, Tổng cục Môi trường sẽ tăng cường kiểm soát chặt chẽ về môi trường đối với các khu công nghiệp, cụm công nghiệp, làng nghề; yêu cầu các đối tượng có quy mô xả thải lớn có lưu lượng từ 1.000m3/ngày đêm lắp đặt hệ thống quan trắc nước thải, khi thải tự động liên tục, truyền số liệu trực tiếp về Sở Tài nguyên và Môi trường theo quy định của pháp luật phục vụ việc theo dõi, giám sát nguồn thải. Đặc biệt ưu tiên việc xác định các nguồn thải trọng điểm để kiểm soát chặt chẽ và có những biện pháp xử lý phù hợp…
Rõ ràng, nước thải công nghiệp chứa nhiều chất ô nhiễm, xả thải ra môi trường khi chưa được xử lý không chỉ gây ô nhiễm môi trường nước sông, nước ngầm, ô nhiễm đất, mà còn ảnh hưởng đến sức khỏe người dân. Do vậy, giải pháp nêu trên được kỳ vọng sẽ góp phần quản lý, kiểm soát tốt, có hiệu quả nguồn nước thải tại các khu, cụm công nghiệp. Tuy nhiên, bên cạnh các giải pháp trên, việc kiểm tra, thanh tra, quan trắc môi trường ở khu vực có cơ sở sản xuất công nghiệp của Việt Nam, việc giám sát của người dân cần được tăng cường, có sự kết nối từ Trung ương tới địa phương để bảo đảm tính minh bạch, khách quan.



